Ninh Bình: Biến nguồn lực văn hóa thành thương hiệu phát triển tầm khu vực

Ninh Bình: Biến nguồn lực văn hóa thành thương hiệu phát triển tầm khu vực
2 giờ trướcBài gốc
Ninh Bình lựa chọn con đường phát triển kinh tế di sản dựa trên tư duy dài hạn: Bảo tồn để phát triển, phát triển để nuôi dưỡng di sản
Di sản - “trữ lượng mềm” tạo lợi thế cạnh tranh khác biệt
Không đi theo lối khai thác ngắn hạn, Ninh Bình lựa chọn con đường phát triển kinh tế di sản dựa trên tư duy dài hạn: Bảo tồn để phát triển, phát triển để nuôi dưỡng di sản. Đây cũng chính là nền tảng để tỉnh hiện thực hóa mục tiêu trở thành trung tâm lớn về du lịch, công nghiệp văn hóa và kinh tế di sản trong giai đoạn tới.
Sau sáp nhập, Ninh Bình sở hữu không gian phát triển rộng gần 4.000km², dân số hơn 4,4 triệu người cùng bề dày lịch sử - văn hóa liên tục từ tiền sử đến hiện đại.
Đây là vùng đất hội tụ những dấu mốc quan trọng của lịch sử dân tộc, từ Nhà nước Đại Cồ Việt tại Cố đô Hoa Lư, hành cung thời Lý, nơi phát tích nhà Trần, cho đến hệ sinh thái thiên nhiên có giá trị nổi bật toàn cầu.
Điểm đặc biệt tạo nên lợi thế cạnh tranh hiếm có của Ninh Bình nằm ở cấu trúc di sản “đa tầng, đa lớp”.
Tỉnh hiện có hơn 5.000 di tích được kiểm kê, trong đó trên 1.100 di tích đã được xếp hạng; hàng nghìn di sản văn hóa phi vật thể, nhiều bảo vật quốc gia và đặc biệt là Quần thể Danh thắng Tràng An - di sản kép văn hóa và thiên nhiên thế giới, duy nhất tại Việt Nam.
Việc tiếp tục hoàn thiện hồ sơ “Ma nhai trên núi Non Nước” hướng tới ghi danh di sản tư liệu UNESCO cho thấy tầm nhìn chiến lược trong việc khẳng định vị thế Ninh Bình trên bản đồ di sản toàn cầu.
Chính “trữ lượng mềm” này đã tạo nên nền tảng để Ninh Bình chuyển dịch mô hình tăng trưởng từ “nâu sang xanh”, lấy kinh tế di sản và công nghiệp văn hóa làm động lực phát triển bền vững.
Du lịch di sản trở thành trụ cột rõ nét nhất của kinh tế di sản ở Ninh Bình
Kinh tế di sản trở thành động cơ tăng trưởng
Một trong những dấu ấn nổi bật của Ninh Bình giai đoạn 2021-2025 là tư duy vốn hóa di sản.
Thông qua hoạt động phát hiện, khai quật, sưu tầm, thống kê và giải mã di sản, tỉnh đã hình thành nguồn dữ liệu phong phú phục vụ xây dựng công viên lịch sử - văn hóa, phát triển nghệ thuật, điện ảnh, sân khấu và các ngành công nghiệp sáng tạo.
Du lịch di sản trở thành trụ cột rõ nét nhất của kinh tế di sản. Dự kiến năm 2025, Ninh Bình đón khoảng 19 triệu lượt khách, trong đó có 2 triệu khách quốc tế, doanh thu đạt khoảng 20.000 tỉ đồng; tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2020-2025 đạt trên 25%/năm về lượng khách và hơn 43%/năm về doanh thu.
Những con số này cho thấy du lịch không còn là lĩnh vực phụ trợ mà đã trở thành động lực tái cấu trúc GRDP theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ, gắn với giá trị văn hóa.
Song song với đó là sự bùng nổ của các sản phẩm sáng tạo lấy cảm hứng từ di sản: Hàng trăm ca khúc, hàng nghìn tác phẩm mỹ thuật, nhiếp ảnh, văn học; sự hồi sinh của chèo, xẩm, hát văn, múa rối nước trong không gian du lịch trải nghiệm.
Thị trường dịch vụ văn hóa, từ mô phỏng đồ cổ, y phục cổ đến các sản phẩm tín ngưỡng, lễ hội… hình thành hệ sinh thái kinh tế di sản năng động, tạo sinh kế cho cộng đồng địa phương.
Kinh tế di sản đã làm sống dậy các làng nghề, tạo sinh kế cho người dân và phát huy sức sáng tạo trong cộng đồng
Tầm nhìn mở cho một trung tâm kinh tế di sản
Một thành công khác của Ninh Bình là định vị thương hiệu điểm đến dựa trên di sản. Các danh hiệu quốc tế về du lịch văn hóa, du lịch thân thiện, cùng sự ghi nhận của các nền tảng du lịch lớn đã đưa hình ảnh Ninh Bình vượt ra ngoài khuôn khổ một điểm đến nội địa, trở thành biểu tượng của du lịch di sản Việt Nam trên trường quốc tế.
Ở đây, di sản không được nhìn như “bảo tàng tĩnh”, mà là không gian sống, không gian trải nghiệm, nơi lịch sử, tín ngưỡng, nghệ thuật và đời sống đương đại giao thoa.
Cách tiếp cận này mở đường cho mục tiêu xây dựng Ninh Bình thành đô thị di sản, nền tảng quan trọng để hướng tới mô hình thành phố trực thuộc Trung ương trong tương lai.
Từ thực tiễn Ninh Bình, có thể rút ra một số bài học có giá trị tham khảo cho các địa phương giàu di sản trên cả nước. Trong đó, di sản phải được đặt ở trung tâm chiến lược phát triển, là phần quan trọng của kinh tế. Khi di sản trở thành lợi thế cạnh tranh cốt lõi, mọi chính sách quy hoạch, đầu tư và quảng bá đều có điểm tựa rõ ràng.
Việc vốn hóa di sản cần dựa trên tri thức và thống kê, số hóa, nghiên cứu khoa học về di sản là điều kiện tiên quyết để phát triển du lịch, công nghiệp văn hóa và các ngành sáng tạo một cách bền vững.
Tăng cường kết nối bảo tồn với thị trường. Di sản chỉ thực sự “sống” khi được đưa vào chuỗi giá trị kinh tế thông qua sản phẩm du lịch, nghệ thuật, dịch vụ văn hóa, từ đó tạo sinh kế cho cộng đồng và nguồn lực tái đầu tư cho bảo tồn.
Xây dựng thương hiệu di sản mang tầm nhìn quốc tế. Ghi danh UNESCO hay các giải thưởng quốc tế không chỉ là danh hiệu, mà là công cụ định vị hình ảnh, nâng cao sức cạnh tranh của địa phương trên bản đồ du lịch toàn cầu.
Với không gian phát triển mở rộng sau sáp nhập, trữ lượng di sản đồ sộ và quyết tâm chính trị rõ ràng, Ninh Bình đang đứng trước cơ hội lịch sử để khẳng định vai trò trung tâm về du lịch, công nghiệp văn hóa và kinh tế di sản của cả nước và khu vực.
Câu chuyện của Ninh Bình cho thấy, khi di sản được nhìn nhận như nguồn lực phát triển, được quản trị bằng tư duy hiện đại và khai thác bằng tri thức, kinh tế di sản hoàn toàn có thể trở thành động cơ tăng trưởng bền vững, góp phần nâng tầm thương hiệu quốc gia trong kỷ nguyên hội nhập.
TÂN MINH; ảnh MINH ĐƯỜNG
Nguồn Văn hóa : http://baovanhoa.vn/van-hoa/ninh-binh-bien-nguon-luc-van-hoa-thanh-thuong-hieu-phat-trien-tam-khu-vuc-193584.html