Sáng 24/6, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với 416/416 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025.
Đáng chú ý, Luật đã nới lỏng chính sách nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam; các quy định có liên quan đến mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân nhằm khẳng định quyền chủ quyền quốc gia đối với vấn đề quốc tịch và các quy định về đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ số…
Cụ thể, người nước ngoài, người không quốc tịch có thể được nhập quốc tịch nếu có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Trường hợp người chưa thành niên xin nhập quốc tịch theo cha hoặc mẹ, hoặc có cha mẹ là công dân Việt Nam, được miễn điều kiện này.
Quốc hội thông qua luật sửa đổi Luật Quốc tịch Việt Nam sáng 24/6. Ảnh: quochoi.vn
Người có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi xin nhập quốc tịch Việt Nam được miễn các điều kiện. Cụ thể là biết tiếng Việt đủ để hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam; đang thường trú ở Việt Nam; thời gian thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam; có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam...
Đồng thời, các trường hợp này được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 02 điều kiện tương tự trường hợp có người thân thích là công dân Việt Nam và được Chủ tịch nước cho phép. Các trường hợp này được nộp hồ sơ tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài nếu cư trú ở nước ngoài.
Luật quy định người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải có tên bằng tiếng Việt hoặc bằng tiếng dân tộc khác của Việt Nam. Trường hợp người xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài thì có thể lựa chọn tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài. Tên do người xin nhập quốc tịch Việt Nam lựa chọn và được ghi rõ trong Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.
Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết luật mới tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư, chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài nhập quốc tịch, qua đó thu hút nguồn lực chất lượng cao. Nhà nước cũng cho phép họ giữ quốc tịch nước ngoài nếu có thân nhân là công dân Việt Nam và được Chủ tịch nước chấp thuận. Trường hợp cư trú ở nước ngoài, người xin nhập tịch có thể nộp hồ sơ tại cơ quan đại diện Việt Nam.
Trước khi Quốc hội bấm nút thông qua, báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự án Luật, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh, cho biết một số đại biểu Quốc hội đề nghị không nên quy định cứng phải có tên bằng tiếng Việt mà có thể là tên Việt hóa được hoặc có thể cho sử dụng tên gốc của người xin nhập quốc tịch Việt Nam bảo đảm hội nhập quốc tế.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Chính phủ đã chỉnh lý quy định tại khoản 4 Điều 19 và khoản 4 Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam theo hướng người xin nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài thì có thể lựa chọn tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài nhằm bảo đảm tạo thuận lợi cho họ khi sinh sống và làm việc tại các quốc gia mà người đó có quốc tịch.
Về việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi tối đa cho người dân, một số đại biểu Quốc hội đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu để tiếp tục đơn giản hóa tối đa thủ tục hành chính có liên quan, đặc biệt là việc số hóa các thủ tục hành chính.
Để đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ số, dự thảo Luật đã bổ sung quy định tại Điều 39 (Trách nhiệm của Chính phủ về quốc tịch). Tuy nhiên, thủ tục giải quyết các việc quốc tịch (đặc biệt là thủ tục xin nhập/xin trở lại/xin thôi quốc tịch Việt Nam) không chỉ là thủ tục hành chính thông thường mà còn là vấn đề thuộc quyền chủ quyền quốc gia, quy trình giải quyết có thể bao gồm cả thông tin mật, tối mật. Vì vậy, Chính phủ cho rằng việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ số cần có lộ trình, phù hợp với tình hình thực tiễn.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Chính phủ đã sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến trình tự, thủ tục (khoản 1 Điều 20, khoản 2 và khoản 3 Điều 21, khoản 1 Điều 24, khoản 4 Điều 25, khoản 5 Điều 29, Điều 41); sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 13 Luật Quốc tịch Việt Nam theo hướng: cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thực hiện xác nhận có quốc tịch Việt Nam thay vì xác định có quốc tịch Việt Nam và cấp Hộ chiếu Việt Nam và giao Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục xác nhận có quốc tịch Việt Nam. Việc cấp Hộ chiếu Việt Nam được thực hiện theo quy định của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.
Chính phủ sẽ tiếp tục nghiên cứu ứng dụng công nghệ số vào một số bước trong quy trình giải quyết hồ sơ quốc tịch trong quá trình sửa đổi toàn diện Luật này và quá trình xây dựng Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam.
Thanh Hoa