Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2025) là bước đi cụ thể trong chiến lược xây dựng cộng đồng người Việt toàn cầu gắn bó với Tổ quốc, đồng thời mở cánh cửa thu hút nguồn lực tri thức, sáng tạo và đầu tư quốc tế phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước trong kỷ nguyên hội nhập. (Ảnh: TTXVN)
Mở rộng diện được nhập quốc tịch
Theo Cục Hành chính tư pháp, Bộ Tư pháp, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam số 79/2025/QH15 được Quốc hội khóa XV thông qua ngày 24/6/2025, cùng Nghị định số 191/2025/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư số 12/2025/TT-BTP của Bộ Tư pháp (đều có hiệu lực từ ngày 1/7/2025), đã chính thức tạo hành lang pháp lý mới, “nới lỏng” đáng kể chính sách nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam.
Việc sửa đổi, bổ sung Luật Quốc tịch Việt Nam là bước thể chế hóa kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết số 36-NQ/TW, Chỉ thị số 45-CT/TW và Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
Đồng thời, luật cũng cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó nhấn mạnh yêu cầu có cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch để thu hút, trọng dụng và giữ chân nhân tài trong và ngoài nước.
Về những điểm mới trong Luật sửa đổi Luật quốc tịch Việt Nam, cụ thể, theo Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2025), người xin nhập quốc tịch Việt Nam nay được mở rộng đáng kể về đối tượng và điều kiện.
Ngoài những trường hợp truyền thống như có vợ/chồng hoặc con đẻ là công dân Việt Nam, Luật mới bổ sung nhóm có ông bà nội, ông bà ngoại, cha mẹ là công dân Việt Nam; người có công lao đặc biệt, có lợi cho Nhà nước Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài... Các đối tượng này được miễn các điều kiện như biết tiếng Việt, thời gian thường trú tại Việt Nam từ 5 năm trở lên và khả năng bảo đảm cuộc sống.
Hành khách xếp hàng làm thủ tục xuất nhập cảnh tại Cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (Lạng Sơn). (Ảnh: TTXVN)
Trước đây, theo quy định tại Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 (sửa đổi năm 2014), các trường hợp được miễn một số điều kiện nhập quốc tịch về biết tiếng Việt, thời gian cư trú tại Việt Nam từ 5 năm trở lên và khả năng bảo đảm cuộc sống chỉ gồm có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam, các trường hợp có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, chính sách trước đây chủ yếu tập trung vào quan hệ huyết thống và hôn nhân trực tiếp (cha, mẹ, con, vợ/chồng) và một số trường hợp đặc biệt, chưa mở rộng tới thế hệ ông bà và người chưa thành niên xin nhập quốc tịch Việt Nam theo cha, mẹ.
Đặc biệt, luật mới cho phép người xin nhập hoặc trở lại quốc tịch Việt Nam được giữ quốc tịch nước ngoài, nếu việc giữ quốc tịch nước ngoài phù hợp với pháp luật của nước đó; không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; không xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Việt Nam; và được Chủ tịch nước cho phép.
Theo quy định trước đây, người xin nhập quốc tịch Việt Nam bắt buộc phải có tên gọi Việt Nam, tên này do người xin nhập quốc tịch tự lựa chọn, được ghi rõ trong Quyết định cho nhập quốc tịch.
Người dân đăng ký cấp hộ chiếu gắn chíp điện tử tại trụ sở Cục Quản lý xuất nhập cảnh (Bộ Công an). (Ảnh: TTXVN)
Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2025) cho phép người xin nhập quốc tịch Việt Nam, đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài được quyền lựa chọn tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài.
Quy định này nhằm bảo đảm tạo thuận lợi cho các trường hợp xin nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài khi sinh sống và làm việc tại các quốc gia mà người đó có quốc tịch.
Theo quy định trước đây, việc nhập quốc tịch phải đáp ứng điều kiện chặt chẽ (đang thường trú tại Việt Nam, người xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài phải chứng minh được việc thôi quốc tịch nước ngoài dẫn đến quyền lợi của người đó ở nước ngoài bị ảnh hưởng, có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam và có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…).
Cán bộ quản lý xuất nhập cảnh trao trả hộ chiếu cho công dân. (Ảnh: TTXVN)
Quy định mới tại Điều 19 đã cho phép các trường hợp có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông bà nội hoặc ông bà ngoại là công dân Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài được nhập quốc tịch Việt Nam với điều kiện thông thoáng (được miễn các điều kiện về thường trú tại Việt Nam, biết tiếng Việt và khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam).
Bên cạnh đó, các trường hợp có vợ/chồng/con, cha, mẹ, ông bà nội hoặc ông bà ngoại là công dân Việt Nam, có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được giữ quốc tịch nước ngoài khi nhập quốc tịch Việt Nam nếu đáp ứng 2 điều kiện nêu trên và được Chủ tịch nước cho phép.
Quy định này nhằm tiếp tục thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác người Việt Nam ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Tạo thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài trở lại quốc tịch
Tiếp nhận hồ sơ đăng ký đề nghị cấp hộ chiếu phổ thông của công dân trên cổng dịch vụ công trực tuyến. (Ảnh: TTXVN)
Về trở lại quốc tịch Việt Nam, luật sửa đổi năm 2025 bỏ quy định giới hạn các trường hợp cụ thể, cho phép tất cả những người đã mất quốc tịch Việt Nam đều có thể xin trở lại quốc tịch nếu có nguyện vọng và đáp ứng điều kiện luật định. Điều này tạo thuận lợi cho kiều bào trở về quê hương sinh sống, đầu tư, làm việc, qua đó củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Luật cũng quy định người xin trở lại quốc tịch Việt Nam được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng hai điều kiện tương tự như trường hợp nhập quốc tịch. Quy định này bảo đảm tính nhất quán trong thực thi, đồng thời tạo điều kiện cho người Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn quyền lợi và quan hệ xã hội hợp pháp tại quốc gia sở tại, nhưng vẫn có thể gắn bó, đóng góp cho Tổ quốc.
Đối với trẻ em có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, luật sửa đổi tiếp tục bảo đảm quyền có quốc tịch Việt Nam. Cụ thể, nếu cha mẹ thỏa thuận lựa chọn quốc tịch Việt Nam khi đăng ký khai sinh, hoặc không thỏa thuận được khi trẻ sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam, thì trẻ mặc nhiên có quốc tịch Việt Nam. Quy định này thể hiện tinh thần bảo vệ quyền trẻ em, tránh để trẻ rơi vào tình trạng không quốc tịch, phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên.
Luật mới cũng có nhiều nội dung đơn giản hóa thủ tục hành chính. Trước đây, theo Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 (sửa đổi, bổ sung 2014), trong hồ sơ xin nhập, xin trở lại hoặc xin thôi quốc tịch, người yêu cầu bắt buộc phải nộp Phiếu Lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp. Luật số 79/2025/QH15 đã sửa đổi theo hướng bỏ quy định này.
Việc cắt giảm giấy tờ này bảo đảm phù hợp với yêu cầu tại Quyết định số 498/QĐ-TTg ngày 11/6/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định, thủ tục hành chính liên quan Phiếu lý lịch tư pháp.
Riêng đối Phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp trong thời gian cư trú ở nước ngoài, người yêu cầu vẫn phải nộp trong hồ sơ xin nhập/xin trở lại quốc tịch Việt Nam để chứng minh có nhân thân tốt, đáp ứng điều kiện không làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam quy định tại Điều 19 và Điều 23 của Luật Quốc tịch Việt Nam và giấy tờ này chỉ có giá trị trong vòng 90 ngày kể từ ngày cấp.
Như vậy, quy định mới đã đơn giản hóa đáng kể thủ tục, loại bỏ giấy tờ trùng lặp, giảm bớt gánh nặng hành chính, đồng thời vẫn bảo đảm tính minh bạch, thận trọng trong khâu thẩm tra thông qua sự xác nhận của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài. Đây là bước cải cách thủ tục quan trọng, vừa tạo thuận lợi cho cá nhân, vừa đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
TRUNG HƯNG