Nơi nuôi dưỡng những giá trị con người

Nơi nuôi dưỡng những giá trị con người
6 giờ trướcBài gốc
Lào Cai đưa lễ hội, làng nghề lên nền tảng số. Ảnh: LAN NGỌC
Ở bình diện gần nhất với đời sống, nơi thôn xóm, bản làng, khu dân cư, nhà văn hóa, trường học, cơ quan, “môi trường văn hóa cơ sở” chính là chiếc nôi bồi đắp nhân cách, chuẩn mực ứng xử, nuôi dưỡng lòng tự trọng, ý thức cộng đồng và tinh thần khai mở.
Từ đây, hệ giá trị con người Việt Nam yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, chăm chỉ, sáng tạo, trung thực, kỷ cương, trách nhiệm, được vừa gìn giữ vừa tái tạo trong một nhịp điệu sống đương đại.
Vườn ươm bản sắc
Môi trường văn hóa không phải là khái niệm trừu tượng, mà ở đó, cộng đồng đồng thuận hình thành quy ước chung, tôn trọng sự đa dạng, khích lệ sáng tạo và cùng nhau quản trị đời sống.
Khi môi trường ấy lành mạnh, mỗi người dân, từ em nhỏ đến bậc cao niên đều học được “cái đúng” không chỉ từ sách vở, mà từ cách cộng đồng sống với nhau mỗi ngày. Khi môi trường ấy rạn nứt, trật tự giá trị dễ đổ vỡ, tiêu cực có thể lan nhanh hơn mọi lời khuyên răn.
Ở những không gian điển hình như miền núi, biên giới, đồng bằng, môi trường văn hóa cơ sở đang như thế nào, đã thay đổi ra sao và có thể mở rộng bằng cách nào. Khu vực miền núi, môi trường văn hóa cơ sở luôn gắn với di sản bản địa.
Văn hóa không phải vật trang trí, mà là nhịp sống: Tiếng cồng chiêng trong lễ hội, điệu khèn, áo chàm, nếp nhà sàn, tập quán tín ngưỡng, tri thức bản địa… Khi tổng hòa ấy được nâng niu trong những không gian sinh hoạt chung, nhà rông, sân lễ hội, nhà văn hóa thôn bản, sự tự tin văn hóa của cộng đồng được củng cố, thế hệ trẻ có chỗ để “học làm người” theo cách của dân tộc mình.
Lào Cai là một trong những địa phương khởi sớm mô hình du lịch cộng đồng gắn xóa đói giảm nghèo từ cuối thập niên 1990, với sự hỗ trợ chuyên môn quốc tế. Từ những bản Sa Pa ban đầu, mô hình đã lan ra Bắc Hà, Si Ma Cai, Mường Khương, được quy hoạch theo hướng mỗi bản gắn với bản sắc của một dân tộc (Giáy, Dao, Tày, Mông…), đầu tư đồng bộ cổng chào, trạm đón khách, không gian trải nghiệm văn hóa, nâng chất nguồn nhân lực địa phương.
Cách làm này không chỉ tạo sinh kế mà còn “đóng khung” một môi trường văn hóa có trật tự, nơi giá trị bản địa được tôn trọng, trình diễn trong đời sống hằng ngày thay vì chỉ trên sân khấu. Lào Cai cũng đang đẩy mạnh quảng bá lễ hội, làng nghề, sản phẩm OCOP qua công nghệ số, từ ứng dụng tra cứu lễ hội đến bản đồ số điểm đến để di sản “chạm” được thế hệ trẻ, đồng thời giúp cộng đồng tự kể câu chuyện văn hóa của mình.
Khu vực Tây Nguyên, nhà rông và cồng chiêng không chỉ là biểu tượng. Đó là “nhà chung” nơi cộng đồng bàn việc, dạy trẻ, dựng lễ. Kon Tum (cũ) nhiều năm qua duy trì lớp truyền dạy chỉnh chiêng, lập đội cồng chiêng người lớn, thiếu niên; phục dựng lễ hội, kiểm kê và lập hồ sơ di sản, tạo ra một cơ chế “học - thực hành” ngay trong thôn.
Thực hành văn hóa sống động như vậy chính là môi trường giáo dục nhân cách hữu hiệu nhất cho thanh thiếu niên, thay vì chỉ “xem” văn hóa như một tiết mục biểu diễn. Khi nhà rông trở lại đúng vai trò là nơi lưu giữ vật linh, nơi tổ chức nghi lễ, nơi diễn xướng, nó cũng trở thành trung tâm điều tiết nếp sống, từ vệ sinh môi trường đến hòa giải cộng đồng. Muốn môi trường văn hóa bền, phải trao lại quyền chủ thể cho cộng đồng, giữ chìa khóa bản sắc.
Hà Giang (cũ) chọn làng văn hóa du lịch làm hạt nhân, 18 làng được quảng bá trên nền tảng quốc tế, với cấu phần sản phẩm và không gian được tổ chức theo triết lý “sống cùng di sản” (nhà trình tường, bếp lửa, rượu ngô, khèn Mông…). Yên Bái (cũ) tập trung thiết chế văn hóa vùng cao, xây sân chơi, câu lạc bộ bản sắc, đưa văn hóa đọc và văn nghệ dân gian vào lịch hoạt động bản - thôn, tạo “điểm chạm” hằng tuần thay vì đợi mùa lễ hội.
Môi trường văn hóa vì thế không bị “mùa vụ”, mà trở thành nhịp sinh hoạt thường xuyên. Môi trường văn hóa cơ sở là “trường học công dân” tự nhiên nhất. Ở nhà văn hóa, trên sân đình, trong lễ hội, ở lớp truyền dạy cồng chiêng hay ví giặm, hát xoan, chuẩn mực ứng xử được học qua thực hành: Kính già, yêu trẻ, tôn trọng quy ước, hợp tác, đúng giờ, giữ vệ sinh, nói lời hay, làm điều đẹp. Sự lặp lại đều đặn của những hành vi nhỏ tạo nên “nếp” và nếp thì bền hơn mọi khẩu hiệu.
Bên cạnh đó, môi trường văn hóa là “bộ lọc mềm” trước tác động toàn cầu hóa. Khi cộng đồng tự tin, có nơi chốn để sống với bản sắc, cái mới đến sẽ được đón nhận trong tư thế chủ động. Người ta mới chọn điều hợp, bỏ điều hại. Lào Cai đưa lễ hội, làng nghề lên nền tảng số nhưng vẫn giữ trục bản sắc từng bản; Đồng Tháp làm kinh tế sen mà không “đánh bóng” quá đà; Kon Tum (cũ) truyền dạy cồng chiêng để thanh thiếu niên có “ngôn ngữ” riêng của cộng đồng mình… là vì vậy.
Văn hóa cũng là “đường biên mềm” của quốc gia. Ở biên giới, môi trường văn hóa tốt giúp củng cố thế trận lòng dân, mở rộng đối ngoại nhân dân, đưa hợp tác biên mậu - du lịch vào khuôn khổ văn minh, an toàn. Những “điểm sáng văn hóa biên giới” từ Quảng Ninh đến Sơn La, Thanh Hóa… những năm qua đã cho thấy văn hóa có thể “giữ biên” từ gốc, bằng cách nuôi dưỡng tự trọng, tự quản, tự lực của cộng đồng.
Từ “làm phong trào” sang “thiết kế môi trường văn hóa”
Mỗi nơi có điều kiện riêng, có cách làm riêng nhưng nên trao quyền chủ thể, đồng sáng tạo tiêu chí cho cộng đồng. Các thôn, bản, tổ dân phố cùng xây “bộ tiêu chí môi trường văn hóa” xuất phát từ vấn đề thật của mình (môi trường, tiếng ồn, bạo lực gia đình, không gian chơi trẻ em, văn hóa mạng…), thay vì áp một mẫu cứng. Tây Ninh đã làm hiệu quả với mạng lưới câu lạc bộ gia đình, nhóm phòng chống bạo lực, địa chỉ tin cậy cộng đồng; có thể chuẩn hóa và nhân rộng.
Bên cạnh đó, làm sống thiết chế văn hóa. Nhưng thiết chế chỉ sống khi có lịch hoạt động và người “giữ lửa”. Một số địa phương Kon Tum (cũ) đã mở lớp truyền dạy định kỳ; Lào Cai lên lịch hoạt động tuần, tháng gắn với mùa vụ và lễ hội; Đồng Tháp gắn thiết chế với không gian kinh tế du lịch để có nguồn thu tái đầu tư.
Môi trường văn hóa chỉ mạnh khi ba trụ tương tác: Nhà trường đưa dân ca, trò chơi dân gian, văn hóa bản địa vào hoạt động ngoại khóa; câu lạc bộ thôn, bản nhận học sinh làm “học viên cộng đồng”; gia đình là “nhà văn hóa nhỏ” với thói quen đọc, nếp ứng xử trên môi trường số. Nghệ An làm rất tốt phần bảo tồn truyền dạy ví, giặm qua câu lạc bộ cộng đồng.
Chuyển đổi số văn hóa cơ sở cũng là giải pháp quan trọng. Số hóa hương ước, lịch hoạt động nhà văn hóa; bản đồ số điểm sinh hoạt cộng đồng; app “lịch lễ hội - lớp học” kết nối người dân, du khách. Lào Cai đang đi đầu trong quảng bá số cho lễ hội, làng nghề, OCOP, có thể xây “bộ công cụ” dùng chung cho vùng miền núi.
Gắn môi trường văn hóa với sinh kế, giảm nghèo bền vững, phát triển du lịch cộng đồng, ngành hàng bản sắc (sen Đồng Tháp, thổ cẩm, mây tre, nông sản đặc hữu), dịch vụ văn hóa sáng tạo. Khi “ăn nên làm ra” từ văn hóa, cộng đồng sẽ tự giác giữ gìn và giá trị văn hóa không còn “xa xỉ” mà trở thành tài sản sống.
Tăng cường đối ngoại nhân dân ở biên giới, chuẩn hóa bộ quy tắc ứng xử du lịch - thương mại ở cửa khẩu; tăng hoạt động giao lưu nghệ thuật, thể thao, hội sách, tuần phim với đô thị “bên kia biên”. Móng Cái (Quảng Ninh) đã duy trì hội đàm, kết nối hạ tầng, giao lưu thường niên với Đông Hưng (Quảng Tây, Trung Quốc); có thể nâng lên thành “Tuần văn hóa biên giới” cố định hằng năm.
Xây dựng môi trường văn hóa cơ sở không phải để “đẹp báo cáo”, càng không phải để phô trương lễ hội. Đó là hành trình kiên nhẫn thiết kế những “điều kiện có trước” cho cái tốt nảy mầm, tạo thành không gian chung đủ hấp dẫn; lịch hoạt động đều đặn; người giữ lửa tận tâm; quy ước do dân cùng làm; sinh kế gắn bản sắc; kết nối số thông minh và đối ngoại nhân dân tinh tế.
HOÀNG CÚC
Nguồn Văn hóa : http://baovanhoa.vn/van-hoa/noi-nuoi-duong-nhung-gia-tri-con-nguoi-160163.html