Nông sản Việt Nam có thể giá trị gấp 5-7 lần hiện nay

Nông sản Việt Nam có thể giá trị gấp 5-7 lần hiện nay
14 giờ trướcBài gốc
Thưa Giáo sư, ông từng chia sẻ, giá trị nông sản xuất khẩu Việt Nam hiện nay rất thấp, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có? Ông có thể cho biết nguyên nhân của chuyện này?
Trước hết phải nói rằng, hơn 60 năm gắn bó với ngành nông nghiệp, tôi đã chứng kiến nhiều thành tựu đột phá của nông nghiệp Việt Nam, có thể gọi là kỳ tích, như việc Việt Nam từng là một quốc gia thiếu lương thực trở thành một nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Chúng ta có giống gạo ngon nhất thế giới, nhiều giống gạo khác (như gạo hạt đỏ, gạo hạt đen, gạo hạt tím) không chỉ dẻo, thơm ngon mà còn có giá trị dinh dưỡng cao và tính dược lý (chống lão hóa, ngừa ung thư), thanh long ruột tím của chúng ta được nhiều nước săn đón, mua bản quyền. Giá trị xuất khẩu nông sản ở Việt Nam năm 2024 đạt hơn 62 tỷ USD. Đây là những thành tựu rất đáng mừng.
Dù vậy, phải nhìn nhận nông nghiệp Việt Nam còn rất nhiều hạn chế, rõ nhất là hơn 90% nông sản Việt Nam xuất khẩu thô, giá trị thu về rất thấp. Ví dụ như đậu tương Việt Nam, riêng đồng bằng sông Hồng có thể trồng được 500.000ha vụ đông, với sản lượng khoảng 2 tấn/ha, mỗi năm chúng ta có thể đạt sản lượng 1 triệu tấn đậu tương. Đậu tương Việt Nam có hàm lượng protein rất cao, có thể lên 38-40% trong khi đậu tương Mỹ chỉ 20%. Đậu tương Việt Nam chỉ trồng từ 75-90 ngày trong khi Mỹ là 180 ngày.
Tuy nhiên, trên thực tế, diện tích trồng đậu tương của Việt Nam lại giảm nhanh, từ khoảng 200.000ha đến nay chỉ còn khoảng 30.000ha. Chúng ta phải nhập khẩu đậu tương từ Mỹ. Nguyên nhân của tình trạng này chính là việc thiếu công nghệ chế biến sâu. Mỗi tấn hạt đậu tương trên thị trường chỉ có giá trị từ 20-30 nghìn đồng/kg, một ha chỉ mang về khoảng 40-60 triệu đồng. Vì vậy, người dân bỏ trồng. Tại huyện Mỹ Đức, Hà Nội, chúng tôi từng đưa giống đậu tương mới về trồng trên diện tích 300ha, sản lượng tới 3 tấn/ha. Tuy nhiên, đến nay diện tích trồng cũng giảm do hiệu quả kinh tế thấp.
Giáo sư, Viện sĩ Trần Đình Long, Chủ tịch Hội Giống cây trồng Việt Nam. Ảnh: Nguyễn Hoài.
Nếu áp dụng chế biến sâu, chỉ đơn giản như làm sữa đậu nành, giá trị một ha đậu tương có thể đạt 400 triệu đồng, chưa kể bã đậu tương có thể làm thức ăn chăn nuôi. Nếu áp dụng công nghệ Nhật Bản, chế biến mầm đậu nành thành Isoflavon -một sản phẩm chức năng dành cho phụ nữ thì giá trị một ha đậu tương có thể trên 2 tỷ đồng.
Nhìn rộng ra thế giới, nước Anh có trồng chè đâu nhưng thương hiệu trà Lipton của họ xuất khẩu khắp các nước. Quả ca cao trồng ở Đắk Lắk, Việt Nam được người Bỉ dùng làm sô cô la rất ngon, thậm chí ngon hơn sô cô la Bỉ. Điều đó cho thấy, việc đẩy mạnh chế biến sâu mang lại hiệu quả rất lớn, có thể giúp hình thành nên các thương hiệu nông sản quốc gia, quốc tế của Việt Nam, mang lại giá trị rất cao.
Vậy theo Giáo sư, Việt Nam cần làm gì để thúc đẩy chế biến sâu, góp phần làm gia tăng giá trị nông sản?
Quản trị nông nghiệp của Việt Nam hiện nay rất yếu, chỉ chú trọng đến khâu sản xuất mà không chú trọng đến xây dựng đồng bộ chuỗi giá trị từ giống, quy trình canh tác, đặc biệt là bảo quản sau thu hoạch và chế biến sâu. Đây không phải là vấn đề mới, chúng ta hô hào khẩu hiệu chế biến sâu mấy chục năm nay nhưng không làm được. Việt Nam là quốc gia nông nghiệp, hơn 70% dân số sống ở nông thôn, chúng ta có điều kiện khí hậu, đất đai vô cùng tuyệt vời cho việc phát triển một nền nông nghiệp đa dạng nhưng các thương hiệu nông sản Việt Nam trên trường quốc tế lại rất ít.
Hơn 90% nông sản xuất khẩu của Việt Nam là sản phẩm thô.
Để có thể xây dựng được các thương hiệu quốc gia, quốc tế, chúng ta cần quan tâm đến xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp, đầu tiên phải có giống tốt, sau đó phải có quy trình canh tác hiệu quả (ví dụ như VietGAP, canh tác hữu cơ, an toàn). Ba là phải chú trọng đến bảo quản sau thu hoạch và chế biến sâu, hình thành các thương hiệu quốc gia, quốc tế.
Cả ba quá trình đều cần ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ. Có thể nói, việc phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ sẽ là chìa khóa, là con đường duy nhất để giải quyết bài toán hình thành chuỗi giá trị của nông sản Việt Nam.
Giáo sư có thể chia sẻ rõ hơn vai trò của khoa học và công nghệ trong việc xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm nông sản Việt Nam?
Như tôi đã nói ở trên, có 3 giai đoạn quan trọng để hình thành nên một sản phẩm nông sản có giá trị cao. Thứ nhất là giống, thứ hai là quy trình canh tác và thứ ba là bảo quản - chế biến sâu.
Trong đó, giống là khâu rất quan trọng. Chúng ta không thể có sản phẩm tốt nếu không có giống tốt, ví dụ dưa hấu không hạt, ổi không hạt sẽ có giá trị hơn dưa hấu có hạt, ổi có hạt. Những năm qua, chúng ta cũng đã quan tâm đến việc chọn tạo giống, hình thành được giống có giá trị cao, năng suất tốt. Tuy nhiên, nghiên cứu cơ bản về giống ở Việt Nam còn rất yếu, đa phần vẫn là chuyển giao, chọn lọc giống. Chúng ta nuôi tôm mà giống cũng đi mua, thức ăn cũng đi mua thì thực tế chỉ là gia cộng. Việc nghiên cứu cơ bản để tạo ra giống bản quyền từ kết hợp gene bản địa và công nghệ hiện đại nhất vẫn còn rất yếu. Gần đây nhất, thế giới có công nghệ chọn tạo giống Editing, chúng ta cũng cử người đi học nhưng về cơ bản còn yếu. Muốn giống tốt, ngoài công nghệ truyền thống phải cập nhật các công nghệ hiện đại nhất.
Việt Nam cần đẩy mạnh quy trình canh tác nông nghiệp theo hướng sử dụng công nghệ cao. Trong ảnh là máy bay không người lái dùng để phun thuốc bảo vệ thực vật của Công ty AgriDrone Việt Nam.
Về quy trình canh tác, nhiều nơi cứ bón nhiều đạm vào đất để tăng năng suất cây trồng nhưng sau một thời gian, đất hỏng đi. Chúng ta phải hướng tới một quy trình canh tác an toàn, sử dụng phân hữu cơ, nói cách khác là phải phát triển một nền nông nghiệp có trách nhiệm, nghĩ đến người dùng, giúp người dùng xác định được nguồn gốc, xuất xứ và chất lượng sản phẩm. Quá trình canh tác có thể ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ vào sản xuất.
Ví dụ, thời gian qua, doanh nghiệp AgriDrone đưa máy bay không người lái đến các vùng nông nghiệp lớn, xây dựng các trung tâm đào tạo, trạm phun dịch vụ ở nhiều tỉnh thành. Nhiều hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất như hệ thống cảm biến đo nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, giúp quá trình canh tác hiệu quả và an toàn. Nói chung, chúng ta phải đi theo hướng nông nghiệp công nghệ cao.
Vấn đề bảo quản sau thu hoạch và chế biến sâu thì chắc chắn phải áp dụng khoa học công nghệ, không còn con đường nào khác. Có thể nói khoa học công nghệ là động lực quan trọng nhất, then chốt cho sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam.
Giáo sư đánh giá như nào thực trạng nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam hiện nay? Theo ông cần làm gì để khoa học công nghệ thực sự phát huy được hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp?
Bên cạnh các thành tựu mà nhà khoa học trong lĩnh vực nông nghiệp đạt được, chúng ta cũng phải thừa nhận, việc tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực nông nghiệp hiện nay còn nhiều bất cập, nhiều viện trường còn trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ. Ví dụ, trong trồng trọt có Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, dưới Viện này có 19 viện nghiên cứu, trung tâm trực thuộc với chức năng nhiệm vụ trùng lắp nhiều, riêng về nghiên cứu, chọn tạo giống có nhiều đơn vị cùng làm. Tương tự các lĩnh vực như Thủy lợi, Thủy sản, Lâm nghiệp cũng trong tình trạng như vậy. Vì vậy, cần có một cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy của các tổ chức khoa học công nghệ theo hướng sáp nhập các đơn vị cùng chức năng, nhiệm vụ, tinh giảm bộ máy hành chính, tập trung và hoạt động nghiên cứu.
Tôi cũng cho rằng cần phân định rạch ròi giữa nghiên cứu khoa học cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Với khoa học cơ bản thì Nhà nước nên đảm bảo nguồn tài chính vì hoạt động này không thể ra tiền ngay nhưng lại rất quan trọng, chẳng hạn như xây dựng ngân hàng gene.
Việt Nam cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp.
Với nghiên cứu ứng dụng thì chuyển sang cơ chế tự chủ toàn diện. Chúng ta cũng đã thúc đẩy cơ chế tự chủ nhưng chưa toàn diện, chưa đến nơi đến chốn. Bắt các nhà khoa học tự chủ nhưng không có cơ chế, không giao cơ sở vật chất, hạ tầng khiến cho các nhà khoa học rất khó khăn.
Tôi lấy ví dụ, Viện Cây Lương thực, Cây Thực phẩm ở Hải Dương có hơn 350ha đất, Viện Lúa ĐBSCL có gần 500ha, hiện nay giá trị từ một ha đất rất thấp, vài chục triệu đồng. Nếu mở cánh cửa liên doanh, liên kết với doanh nghiệp, giá trị đó có thể lên tới hàng tỷ đồng/ha. Nguồn lợi đó vừa đóng thuế cho nhà nước, vì quay vòng trả lương cho các nhà khoa học và hoạt động nghiên cứu.
Một ví dụ khác, chúng ta có Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ Gen, hoạt động kém hiệu quả trong khi các doanh nghiệp rất muốn liên kết sử dụng. Nếu mở cửa cho doanh nghiệp vào sẽ tạo ra các sản phẩm giá trị. Đây chỉ liên doanh, liên kết, phòng thí nghiệm vẫn của Nhà nước.
Nhà nước cũng cần thúc đẩy cơ chế liên doanh, liên kết mạnh mẽ giữa nhà khoa học, doanh nghiệp và người nông dân. Ví dụ, doanh nghiệp đặt hàng nhà khoa học. Nhà khoa học nghiên cứu ra giống, trồng một ha mô hình mẫu, doanh nghiệp sẽ là đơn vị nhân rộng mô hình đó. Nhà khoa học tạo ra giống nhưng nhân rộng thì phải có ngành công nghiệp hạt giống. Công ty Cổ phần Tập đoàn giống cây trồng Việt Nam phải bỏ ra 350 tỷ đồng xây dựng một nhà máy giống cây trồng ở Đồng Tháp thì mới có giống tốt. Vì vậy cơ chế liên doanh, liên kết giữa nhà khoa học và doanh nghiệp vô cùng quan trọng.
Tôi đã nói ở nhiều diễn đàn, Nhà khoa học không xin tiền Nhà nước, chỉ xin cơ chế để thúc đẩy phát triển. Cũng chỉ khi nhà khoa học tự làm ra đồng tiền từ sản phẩm, sức lao động của mình mới mang lại sự phát triển bền vững và hiệu quả.
Về phía các nhà khoa học, tôi nghĩ rằng, bản thân nhà khoa học cũng phải thay đổi, thay vì nghiên cứu cái mình thích thì nghiên cứu cái thị trường cần, nghiên cứu theo đặt hàng của doanh nghiệp, như vậy mới mang lại hiệu quả trong thực tế.
Vừa rồi, chúng tôi rất vui mừng khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 57 về đột phát phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số Quốc gia. Thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban.
Nghị quyết đã chỉ ra nhiều giải pháp cởi trói thực sự cho hoạt động khoa học và công nghệ như tháo gỡ những khó khăn về thể chế, cơ chế tài chính, chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài hay chủ trương chấp nhận rủi ro, độ trễ trong nghiên cứu khoa học công nghệ. Nếu những chính sách trên thực sự đi vào cuộc sống, chúng tôi rất kỳ vọng sự phát triển đột phá của ngành nông nghiệp.
Tôi cho rằng, chúng ta đã có “thiên thời”, “địa lợi” khi có điều kiện rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp với đất đai trù phú, từ các vùng đất phù sa màu mỡ đến đất đỏ bazan, từ khí hậu á nhiệt đới, có thể trồng các loại cây ôn đới đến khí hậu nhiệt đới. Có thể nói Nghị quyết 57, nếu triển khai thành công sẽ là yếu tố “nhân hòa” thúc đẩy nông nghiệp Việt Nam sang trang mới với giá trị cao và bền vững.
Xin cảm ơn Giáo sư!
Giáo sư, Viện sĩ Trần Đình Long là nhà khoa học nổi tiếng trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam, là cha đẻ của nhiều giống cây trồng và công trình nghiên cứu khoa học. Năm 1993, ông được Viện Hàn lâm Khoa học Nga (RAS) bầu chọn là Viện sĩ nước ngoài của Viện. Ông cũng là một trong 6 nhà khoa học Việt Nam được RAS vinh danh nhân kỷ niệm 300 năm thành lập Viện này.
Nguyễn Hoài
Nguồn Tiền Phong : https://tienphong.vn/nong-san-viet-nam-co-the-gia-tri-gap-5-7-lan-hien-nay-post1725847.tpo