1. Theo lịch trình, sau khi cất cánh từ Mumbai, Ấn Độ, chiếc Pan Am 73 sẽ lần lượt quá cảnh tại Karachi (Pakistan), Frankfurt (Cộng hòa liên bang Đức) rồi sau đó, điểm đến cuối cùng là sân bay John F. Kennedy, New York, Mỹ. Hành khách đa số là người Ấn Độ, số ít là người Mỹ, Anh, Pakistan. Phi hành đoàn gồm 4 phi công Mỹ và 13 tiếp viên Ấn Độ, trong đó Neerja Bhanot là tiếp viên trưởng.
Máy bay Pan Am 73 lúc Neerja Bhanot (ảnh nhỏ) đã mở cầu thang hơi giúp hơn 200 người thoát chết.
4 giờ 30 sáng ngày 5/9/1986, chiếc Pan Am hạ cánh xuống sân bay Karachi để lấy thêm nhiên liệu và đón thêm hành khách. Lúc này, 109 hành khách xuống máy bay và các hành khách mới đang lên. Đến 6 giờ, một chiếc xe van trên đó có 4 tên không tặc cầm đầu bởi Zayd Hassan Abd al-Latif Safarini, bí danh Mustafa thuộc tổ chức khủng bố Abu Nidal (ANO), hay còn được biết đến với cái tên Fatah Revolutionary Council (Hội đồng cách mạng Fatah), hoặc Arab Revolutionary Brigades (Lữ đoàn cách mạng A Rập) bất ngờ xuất hiện rồi vừa lao qua trạm kiểm soát an ninh vừa bắn loạn xạ khiến 2 nhân viên mặt đất của Hãng hàng không Kuwait Airways chết ngay tại chỗ.
Sau đó cả 4 tên theo cầu thang xông lên máy bay. Những tiếng súng chát chúa đã khiến hành khách hoảng loạn, nhất là khi 4 tên không tặc xuất hiện với súng tiểu liên AK 47, súng ngắn, lựu đạn và những dây chất nổ dẻo. Chưa đầy 3 phút sau, lại có thêm 2 tên không tặc cải trang thành nhân viên an ninh sân bay, mỗi tên đeo lủng lẳng trước ngực 4 quả lựu đạn lao lên tham gia vụ cướp.
Trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc, nữ tiếp viên trưởng Neerja Bhanot vẫn đủ bình tĩnh kích hoạt mã báo động không tặc cho tổ lái qua mạng liên lạc nội bộ Intercom. Cơ trưởng Christ Davey nhớ lại: “Nghe thấy từng loạt súng và nhận được tín hiệu máy bay bị cướp, tôi nhấn nút mở cửa thoát hiểm trên trần buồng lái rồi cả 4 phi công chúng tôi thoát ra an toàn…”.
Hành động này của cơ trưởng Christ về sau nhận được nhiều lời khen ngợi vì nếu không có tổ lái, bọn không tặc chẳng thể bắt máy bay cất cánh, tạo thời gian cho việc giải cứu nhưng bên cạnh đó, Christ cũng hứng đủ gạch đá chê trách vì rằng: “Cũng giống như tàu biển, khi gặp sự cố thì thuyền trưởng sẽ là người cuối cùng rời tàu, thậm chí có thể chết theo tàu nhưng ở đây, ông ta đã chọn sự sống cho riêng mình, bỏ mặc cả trăm người vô tội…”.
Khi biết 4 phi công đã tẩu thoát, 6 tên không tặc nổi cơn điên. Chúng ra lệnh cho tất cả hành khách ở khoang thương gia và khoang hạng nhất phải đi xuống phía sau, còn hành khách hạng phổ thông ở phía sau đi lên phía trước. Alluajad Kemal, người Pakistan kể lại: “Người ta chen lấn, dẫm đạp lên nhau. Tiếng trẻ con khóc, tiếng van xin và tiếng cầu kinh khiến không gian trong lòng máy bay trở nên hỗn loạn, nhất là lúc chúng bắn chết Rajesh Kumar, 28 tuổi, công dân Mỹ gốc Ấn Độ nhằm gây áp lực yêu cầu tổ lái quay lại máy bay. Thi thể Kuma bị chúng ném xuống đường băng qua cửa thoát hiểm…”.
Tiếp theo, bọn không tặc ra lệnh cho nữ tiếp viên trưởng Neerja cùng 2 tiếp viên là Sunshine Vesuwala và Madhvi Bahuguna lấy hết hộ chiếu của hành khách. Tiếp viên Sunshine Vesuwala kể: “Trong quá trình lấy hộ chiếu, tiếp viên trưởng Neerja nói nhỏ với chúng tôi rằng hãy giấu vào túi đựng áo phao dưới ghế ngồi tất cả những hộ chiếu Mỹ vì bọn không tặc sẽ giết họ. Kết quả là chúng tôi giấu được 43 hộ chiếu…”.
Theo Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA), Abu Nidal (ANO) là một trong những nhóm khủng bố khét tiếng nhất thế kỷ 20. Được thành lập năm 1974 bởi Sabri Khalil al-Banna, bí danh Abu Nidal, nghĩa là “Cha của các cuộc đấu tranh”, ANO đã thực hiện 90 vụ tấn công từ năm 1974 đến 1992, giết chết hơn 300 người và làm bị thương hàng trăm người khác ở 20 quốc gia nên đã bị Israel, Mỹ, Anh, Canada, Liên minh Châu Âu, Arab Saudi và Nhật Bản liệt vào danh sách cực kỳ nguy hiểm.
Được sự ủng hộ tích cực của Iraq dưới thời Saddam Hussein, ANO có các chi nhánh ở Lebanon, Syria và Libya, trở thành công cụ cho các cuộc chiến ủy nhiệm của Iraq. Là lãnh đạo tối cao của ANO, Abu Nidal trực tiếp lập kế hoạch và chỉ đạo hầu hết các vụ tấn công khủng bố, trong đó đáng kể nhất là vụ tấn công Đại sứ quán Arab Saudi ở thủ đô Paris, Pháp, ngày 5/9/1973 để đòi Arab Saudi phóng thích một thành viên của ANO là Abu Dawud, ám sát đại sứ Israel Shlomo Argov tại London tháng 6/1982, tấn công sân bay Rome, Italia và Vienna, Áo cùng trong tháng 12/1985 khiến 18 người chết và 120 bị thương, đa số là người Mỹ và Israel, giết nhà báo Anh Alec Collett và vụ cướp máy bay Pan Am 73 tại Karachi, cũng xảy ra trong tháng 9/1986.
Tấn công tàu City of Poros tại Hy Lạp tháng 7/1988 khiến 9 người chết và 98 bị thương, ám sát Abu Iyad, Phó chủ tịch Mặt trận dân tộc giải phóng Palestine (PLO) và Abul Hul, trưởng ban an ninh của PLO tại Tunis hồi tháng 1/1991, ám sát nhà ngoại giao Jordan là Naeb Imran Maaytah tại Beirut tháng 1/994…
Neerja Bhanot đã qua đời khi được đưa vào Trung tâm ứng cứu y tế khẩn cấp, sân bay Karachi.
2. 8 giờ sáng, những cuộc đàm phán về việc thả con tin bắt đầu giữa các cơ quan chức năng Pakistan cùng đại diện của Hãng Pan Am với bọn không tặc. Safarini, kẻ cầm đầu nhóm cướp nêu yêu sách: “Sẽ thả hết con tin nếu Pakistan cấp cho bọn tao một máy bay để đi Cyprus (Cộng hòa Sip) đồng thời yêu cầu Chính quyền Sip thả hết những tù nhân ANO bị Sip bắt giữ”.
Các cuộc đàm phán kéo dài đến 9 giờ tối thì ngưng lại bởi hệ thống điện trên máy bay đã hết, nguồn điện dự phòng cũng chẳng còn để cung cấp cho máy truyền tin Telecom. Điều này đã dẫn đến sự căng thẳng trong nhóm không tặc. Chúng la hét: “Pakistan chuẩn bị tấn công, hãy dũng cảm cho cuộc chiến cuối cùng”.
Tiếp viên Sunshine Vesuwala nói tiếp: “Ngay trước mắt tôi, 1 tên không tặc loay hoay kích hoạt cái đai bom đeo ngang lưng nhưng chẳng hiểu sao nó không nổ…”. Tiếp viên Madhvi Bahuguna kể thêm: “Tôi nghe tên cầm đầu quát lớn: “Giết hết chúng nó” rồi liền sau đó là từng loạt súng vang lên lẫn tiếng nổ lựu đạn hòa nhịp cùng tiếng kêu cứu của những người bị thương, tiếng kêu khóc, tiếng rú kinh hoàng đã biến khoang máy bay thành một địa ngục có thật…”.
Vẫn theo tiếp viên Madhvi Bahuguna, trong cái địa ngục đầy máu và lửa ấy, nữ tiếp viên trưởng Neerja Bhanot vẫn giữ được bình tĩnh. Cô nhanh chóng mở cửa thoát hiểm khẩn cấp, giật chốt cho cầu thang hơi bung lên rồi kéo từng hành khách - trong đó có 3 trẻ em - đẩy họ ra ngoài. Hành động dũng cảm của Neerja đã cứu sống hơn 200 người, trong lúc ở dưới đất, Lực lượng đặc nhiệm Pakistan (SSG) dưới quyền chỉ huy của Đại tá Tariq Mehmood nhanh chóng di tản những hành khách vừa thoát chết đến nơi an toàn đồng thời chuẩn bị xông lên máy bay.
Neerja Bhanot sinh ngày 7/9/1963 tại Chandigarh, Ấn Độ, trong một gia đình người Hindu, cô là con gái của vợ chồng nhà báo Harish Bhanot và Rama Bhanot. Sau khi tốt nghiệp cao đẳng tại trường St. Xavier's College ở Mumbai, Neerja bắt đầu sự nghiệp với vai trò người mẫu nhưng đến năm 1985, cô nộp đơn vào trường huấn luyện tiếp viên hàng không của Hãng Pan Am.
Ra trường, Neerja làm việc trên tuyến bay Frankfurt, Tây Đức và Mumbai, Ấn Độ. Toàn bộ tiếp viên trên chuyến bay này cũng là người Ấn Độ. Sherene Pavan, tiếp viên trong tổ bay với Neerja cho biết chỉ 3 tháng sau ngày được Hãng Pan Am tuyển dụng, Neerja đã được làm tiếp viên trưởng khi mới chỉ 22 tuổi: “Neerja là người có trách nhiệm trong công việc. Cô ấy chưa hề bị ai than phiền - kể cả tổ bay lẫn hành khách. Trong vụ không tặc ngày 5/9/1986, Neerja đã chứng tỏ bản lĩnh dũng cảm của cô ấy, bản lĩnh của một anh hùng…”.
2 tên không tặc đang uy hiếp hành khách (ảnh do một hành khách chụp).
3. Trở lại với vụ không tặc, lúc này Lực lượng đặc nhiệm Pakistan (SSG) dưới quyền chỉ huy của Đại tá Tariq Mehmood đã bắn nhiều trái khói xung quanh máy bay, tạo ra một màn sương trắng đục nhằm che mắt bọn không tặc khi họ cho chiếc xe thang áp sát buồng lái. Tiếp theo, 6 đặc nhiệm SSG theo lối thoát hiểm mà 4 phi công đã nhảy ra ngoài, xông vào buồng lái.
Đặc nhiệm Abdumal nhớ lại: “Bọn không tặc không ngờ chúng tôi đột nhập bằng lối này nên trong buồng lái chẳng có ai. Tới chừng nhìn thấy chúng tôi, chúng vừa bắn vừa theo cầu thang hơi xuống đất. Oái oăm thay, màn khói sương mù lúc này lại trở thành đồng minh của chúng nên chúng tản ra, lẫn lộn vào đám đông và trốn thoát”.
Tuy nhiên trước khi trốn thoát, Safarini - tên cầm đầu vụ không tặc đã kịp bắn một phát súng ngắn vào Neerja khi cô đang cố đẩy một hành khách bị thương nặng xuống cầu thang hơi. Viên đạn đi vào xuyên qua bụng cô làm đứt động mạch chủ bụng. Đại tá Tariq Mehmood nói: “Kiểm soát được máy bay, chúng tôi lập tức đưa những người bị thương đi cấp cứu. Và bởi vì có 21 người chết và 120 người bị thương nên những người mang thương tích nặng được đưa đi đầu tiên. Lúc ấy, tôi chưa biết gì về hành hành động dũng cảm của Neerja nên cô ấy là một trong những người cuối cùng được chuyển xuống. Vì thế tại phòng ứng cứu khẩn cấp y tế ở sân bay, Neerja chết vì mất máu…”.
Vài ngày sau cái chết của Neerja, những thông tin về lòng dũng cảm của cô tràn ngập trên trang nhất của những tờ báo lớn khắp thế giới. Cô được Tổng thống Ấn Độ truy tặng huân chương Ashoka Chakra - là huân chương cao quý nhất Ấn Độ dành cho những hành động anh hùng (Neerja cũng là phụ nữ đầu tiên ở Ấn Độ nhận được huân chương này) đồng thời Neerja còn được vinh danh trong con tem bưu chính Ấn Độ có hình cô.
Bên cạnh đó, Quốc hội Pakistan cũng trao cho cô huân chương Tamgha-e-Pakistan, Bộ Tư pháp Mỹ trao cho cô huân chương Dũng cảm đặc biệt - Special Courage Award chưa kể gia đình cô còn thành lập Quỹ Neerja Bhanot, trao giải hàng năm cho các nữ tiếp viên có thành tích xuất sắc trong việc phục vụ và bảo vệ an toàn cho hành khách.
Về phía bọn không tặc, chỉ 27 ngày sau vụ cướp máy bay, lực lượng an ninh Pakistan đã bắt được tất cả 6 tên khi chúng đang tìm đường trốn sang Afghanistan. Năm 1988, cả bọn ra tòa, trong đó kẻ cầm đầu là Safarini lĩnh án chung thân, những tên còn lại từ 13 đến 15 năm tù.
Năm 2001, Safarini bị dẫn độ sang Mỹ theo yêu cầu của Bộ Tư pháp Mỹ. Tại đây, y nhận mức án… 160 năm tù vì 95 tội danh, bao gồm giết người và khủng bố…
Vũ Cao (Theo History: Pan Am 73)