Triển lãm Hồi cố Vọng Lai giới thiệu gần 100 tác phẩm hội họa của 3 họa sĩ gạo cội, tiêu biểu cho Mỹ thuật Việt Nam giai đoạn Đổi Mới: Lý Trực Sơn, Ca Lê Thắng và Đào Minh Tri.
Triển lãm Hồi Cố Vọng Lai (Retrospective of Vision), do Giám đốc nghệ thuật VCCA Đỗ Tường Linh và Vũ Huy Thông đồng giám tuyển, quy tụ 100 tác phẩm hội họa của ba họa sĩ gạo cội: Lý Trực Sơn, Ca Lê Thắng và Đào Minh Tri.
Bên cạnh việc tôn vinh nửa thế kỷ lao động nghệ thuật của họ, triển lãm còn là lời tri ân dịp 100 năm Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam (1925–2025) - nơi cả ba từng theo học hệ Sơ Trung 7 năm và Đại học 5 năm.
Giải thích nhan đề do Đỗ Tường Linh đặt, Vũ Huy Thông cho rằng hai vế đã gói trọn tinh thần triển lãm. “Hồi cố” là cái nhìn bao quát, như một tấm bản đồ vững chắc về hành trình sáng tác kéo dài năm thập kỷ; còn “vọng lai” là niềm tin hướng tới, kỳ vọng những thành tựu ấy trở thành động lực để thế hệ trẻ khẳng định tiếng nói riêng.
“Bản sắc Việt sẽ tự nhiên hiển lộ khi nghệ sĩ có bản sắc cá nhân đủ mạnh. Câu hỏi nghệ thuật Việt có bản sắc không, không quan trọng bằng việc nghệ sĩ đã có bản sắc riêng chưa?”, giám tuyển Vũ Huy Thông chia sẻ với Tri Thức - Znews.
Họa sĩ Lý Trực Sơn và Ca Lê Thắng tại triển lãm.
Vì thế, trưng bày được tổ chức như một lộ trình đọc: từ các trục “hồi cố” làm mốc neo, người xem đi dần vào những cụm “vọng lai”, nơi 3 cá tính độc lập đối thoại và cộng hưởng trong một không gian nhất quán.
Một điểm nhấn khác là quan niệm “đương đại” ở triển lãm này không nằm ở kỹ thuật hay đa phương tiện, mà ở khả năng tác phẩm trả lời câu hỏi của thời đại và phá bỏ định kiến thẩm mỹ bằng ngôn ngữ riêng.
Theo Vũ Huy Thông, Hồi Cố Vọng Lai không phải một buổi “tổng kết đẹp”, mà là một luận đề, dùng ba quỹ đạo cá nhân để phác thảo bản đồ tiến hóa của mỹ thuật Việt - từ thập niên 1960-1970, qua thời Đổi Mới, đến giai đoạn hội nhập.
Ba tiếng nói, ba quỹ đạo của chất liệu và khí chất nghệ sĩ
Sinh ra ở Bến Tre và tập kết ra Bắc từ sớm, họa sĩ Ca Lê Thắng trưởng thành trong không khí học thuật của Hà Nội, lớn lên giữa những giá sách như một cánh cửa mở ra kho tri thức rộng lớn. Từ sự phóng khoáng của miền sông nước kết hợp kỷ luật thẩm mỹ miền Bắc, “mùa nước nổi” dần được ông chuyển hóa thành một động cơ sáng tạo – càng về sau càng tinh tế, rời khỏi lối tả thực để trở thành dưỡng chất nuôi tranh.
“Ba lần triển lãm cá nhân đều xoay quanh một chủ đề, và lần trở lại VCCA cho thấy một ‘mùa nước nổi’ rất riêng của Ca Lê Thắng, nơi ký ức địa lý lắng lại thành ngữ pháp của màu, bề mặt và nhịp điệu. Ông không còn trình bày cảnh sắc, ông nuôi dưỡng nó như một nguồn khí lực sáng tạo”, giám tuyển nhận xét.
Triển lãm sắp đặt theo hành trình “hồi cố” và “vọng lai”, gợi lộ trình tiến hóa của mỹ thuật Việt từ quá khứ đến hiện tại.
Nếu ở Ca Lê Thắng, “mùa nước nổi” được chắt lọc thành nhịp điệu của màu và bề mặt, thì đến Lý Trực Sơn, ngôn ngữ hội họa nghiêng nhiều về suy tưởng. Thời gian ở Pháp và Đức không làm ông xa rời phương Đông, trái lại, “ở giữa lòng phương Tây, ông càng thấy thôi thúc trở về với những gì là của mình”.
Giám tuyển Vũ Huy Thông gọi tranh của ông là “trừu tượng mang tính biểu tượng” - không ồn ào, không cực đoan, mà là cách lắng nghe nhịp vận hành của tự nhiên. Trên nền sơn mài lạnh và sâu, những đốm sáng nhỏ, vạch ngang dọc hiện lên gợi hào quẻ, cánh diều, cánh bướm - tất cả đều là dấu hiệu giản dị mà gợi mở. Ở đó, bề mặt sơn mài vừa là chất liệu truyền thống, vừa như "tấm bản đồ" để người xem lần theo suy nghĩ của tác giả.
“Ngay cả khi bỏ qua diễn giải, khán giả vẫn cảm được một không gian thăm thẳm, bao la. Sự trừu tượng của Lý Trực Sơn vì thế không khó gần. Nó mời ta đứng chậm lại, nhìn lâu hơn, và để trực giác lên tiếng”, giám tuyển nhấn mạnh.
Sang đến Đào Minh Tri, “con cá” trở thành dấu hiệu nhận diện một thế giới khác. Từ ẩn dụ về sự sống, ông đưa nó đến những câu chuyện về thân phận con người và khát vọng đổi mới. Trên hành trình đó, ông là nhà giáo, nhà quản lý, rồi là Chủ tịch Hội Mỹ thuật TP.HCM. Dù ở vai trò nào, ông cũng là một người luôn cổ vũ cho sự thay đổi.
Theo Vũ Huy Thông, “tinh thần cách mạng thẩm mỹ” của Đào Minh Tri đã thúc đẩy đổi mới mỹ thuật Việt trong gần nửa thế kỷ. Dù nổi bật từ thời sinh viên với các bài tốt nghiệp hàn lâm, ông lại chủ động đi xa khỏi khuôn đào tạo, và chính sự “đi xa” ấy đã làm nên tiếng nói riêng, bền bỉ và có sức lay động.
Bản đồ mỹ thuật Việt qua lịch sử, nhà trường và bản sắc
Thông qua Hồi Cố Vọng Lai, hai giám tuyển Vũ Huy Thông và Đỗ Tường Linh phác họa một lộ trình cô đọng của mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Ở thập niên 1960–1970, khi đất nước còn trong khói lửa, nghệ thuật gánh trọng trách phục vụ nhiệm vụ dân tộc. Nhưng, như giám tuyển nhấn mạnh, chỉ khi nghệ sĩ giữ được dấu ấn cá nhân, họ mới thật sự định vị mình và đóng góp lâu dài cho cái chung.
Trước thế hệ này, những danh họa như Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên… đã trở thành các mốc neo. Họ cùng đi vào đề tài cách mạng, chiến tranh, nhưng điều ở lại với thời gian là phong cách riêng không trộn lẫn.
Bước sang thời Đổi Mới và hội nhập, yêu cầu ấy càng rõ: “Có tiếng nói riêng” không chỉ là lựa chọn thẩm mỹ, mà còn là thước đo năng lực nghệ sĩ, và rộng hơn, của cả nền nghệ thuật. Khi cá nhân đủ mạnh, mỹ thuật quốc gia mới có cơ hội đứng vững trên bản đồ thế giới. Ở tinh thần đó, Hồi Cố Vọng Lai không chỉ nhìn lại quá khứ, mà còn chỉ đường cho tương lai – đi tới bằng giọng điệu của chính mình.
Các cụm trưng bày tạo không gian đối thoại giữa ba cá tính hội họa độc lập: Ca Lê Thắng, Lý Trực Sơn và Đào Minh Tri.
Vai trò của nhà trường, đặc biệt là Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam trong 100 năm qua, cũng được giám tuyển Vũ Huy Thông nhìn nhận theo hai chiều: “Một mặt, đào tạo kỹ lưỡng về nghề là yếu tố quyết định thành công; nhưng nếu chỉ dừng ở kỹ năng, chúng ta chỉ đào tạo thợ, không đào tạo nghệ sĩ. Vì thế, môi trường đào tạo đúng nghĩa phải nuôi dưỡng tư duy, nghiên cứu chất liệu và kiến thức văn hóa - triết học, trên hết là khí hậu sáng tạo cá nhân”.
Câu chuyện của Ca Lê Thắng, Lý Trực Sơn và Đào Minh Tri minh chứng rõ nhất - khi họ “được đào tạo hàn lâm nhưng đi xa khỏi cái khung sẵn có”. Nền tảng học thuật trở thành bệ phóng giúp họ mở rộng ngôn ngữ riêng mà vẫn giữ chuẩn mực hình thức. Khi nhà trường trao cả tay nghề lẫn không gian cho cá tính phát triển, hành trình từ lớp học đến phòng trưng bày mới thật sự trọn vẹn.
Rời không gian triển lãm, khán giả có lẽ sẽ nhớ tới đúc kết của giám tuyển Vũ Huy Thông: “Hãy khẳng định tiếng nói riêng trước đã. Bản sắc Việt, nếu có, sẽ tự nó đi theo”. Ở nghĩa ấy, Hồi Cố Vọng Lai là cuộc hồi tưởng để hướng tới – nhớ quá khứ không để níu giữ, mà để dựng điểm tựa cho tương lai, nơi mỹ thuật Việt tự tin đối thoại bình đẳng với khu vực và thế giới.
Triển lãm mở cửa tự do từ ngày 13/09 đến ngày 26/10 tại Trung tâm Nghệ thuật Đương đại VCCA (phường Thanh Xuân, Hà Nội).
Thư Vũ
Ảnh: NVCC