Pháp tấn công Hòa Bình, Mai Châu. Chúng từ Hà Nội đánh lên, Sơn La đánh xuống, thêm đám lính nhảy dù xuống thị xã Hòa Bình, nơi nào cũng có giặc nên cuộc rút lui không còn lực lượng bảo vệ. Một trung đội gồm những chiến sĩ ốm yếu bước đi còn lảo đảo được thành lập ngay đầu Dốc Văn.
“Tay run run, anh em thử quy lát, đếm đạn còn lại trong bao”. Một trung đội trưởng đang lên cơn sốt nói với những người dân đang đứng lại hoang mang: “Đồng bào yên trí rút trước đi. Chúng tôi sẽ nằm đây chặn địch”.
Các bệnh binh chia nhau nấp sau các gốc cây, lựu đạn để cạnh, chăn kéo đắp trùm kín đến vai, “mắt gườm gườm”, truyền đi câu khẩu hiệu: “Chúng ta quyết cả giặc và ta đều chết ở đây”.
Bia kỷ niệm Tinh thần Tây Tiến ở bản Sài Khao, Thanh Hóa do con cháu các chiến binh Tây Tiến trong Ban Liên lạc Truyền thống Tây Tiến lập. Chị Bùi Phương Thảo, con gái nhà thơ Quang Dũng, Trưởng ban Liên lạc đứng ở hàng bên trái, thứ hai từ trong ra
Năm lần tây trắng, tây đen hô “A lô xô” xông lên, cả năm lần những phát bắn và những quả lựu đạn hất ngược chúng xuống chân dốc. Các chiến sĩ cũng không ai đứng nổi lên để đuổi giặc, cứ nằm đợi.
Đợi mãi vẫn không thấy gì, chỉ nghe tiếng súng đì đẹt xa dần. Vài chiến sĩ còn đủ sức bò ra đầu dốc nghe ngóng thì thấy địch đã rút, chỉ còn mấy vũng máu lênh láng và hàng đống vỏ đạn. Từ sáng chưa ăn uống gì, lại chiến đấu căng thẳng hai tiếng đồng hồ, nhiều chiến sĩ nằm lăn ra đất không dậy được nữa.
“Chúng ta quyết cả giặc và ta đều chết ở đây”. Tôi ứa nước mắt và lại nhớ đến câu chuyện Trung tướng Hồng Cư – nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị kể tại cuộc giao lưu trực tuyến tại báo Tiền Phong dịp Đại tướng Võ Nguyên Giáp mất năm 2013.
Tháng 10 năm 1947, Pháp tấn công lên Chiến khu Việt Bắc hòng tiêu diệt cơ quan đầu não của Kháng chiến. Tiểu đoàn 42 thuộc Trung đoàn bảo vệ Bộ Tổng của Hồng Cư đóng ở Bình Ca bảo vệ Tân Trào nằm ngay phía sau.
Trưa ngày 7/10/1947, chỉ huy tiểu đoàn nhận tờ mật lệnh từ chính Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp gửi, trong đó ghi đúng một câu: “Tiểu đoàn 42 sống chết với con đường Bình Ca - Thái Nguyên. Văn”.
Đó là năm 1947 gian khó, bộ đội trong đơn vị hầu hết là người Hà Nội, quân phục chưa có, ai có gì mặc nấy, ăn uống kham khổ, chưa quen lam chướng nên phần đông bị phù thũng, sốt rét.
Chính trị viên Tiểu đoàn Hồng Cư đi đến các lán, thấy rất nhiều anh em đang lên cơn sốt, đắp chăn nằm run lập cập. Ông truyền lệnh: Tổng Tư lệnh có lệnh cho chúng ta: “Tiểu đoàn 42 sống chết với con đường Bình Ca - Thái Nguyên”. Kỳ lạ! Vừa nghe lệnh xong, các chiến sĩ đều tung chăn ngồi dậy, khoác súng lập cập, liêu xiêu ra trận địa.
“Cả đời tôi không quên được hình ảnh ấy” - Tướng Hồng Cư nói. Sau đó, Tiểu đoàn 42 bắn chìm nhiều tàu giặc trong các trận chiến đấu trên Sông Lô, góp phần bảo vệ vững chắc căn cứ địa cách mạng.
“Chúng ta quyết cả giặc và ta đều chết ở đây”, “Tiểu đoàn 42 sống chết với con đường Bình Ca - Thái Nguyên” - chỉ có cái hào khí ngút trời ấy, lực lượng vũ trang non trẻ của chúng ta mới vượt qua được những năm tháng đầu tiên đầy khó khăn, nặng nề của cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp. Chỉ nhờ có tinh thần quyết tử cho Tổ quyết quyết sinh ấy, ngày nay chúng ta mới có Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam!
*
Ngồi trước mặt tôi trong căn hộ ở Tòa nhà Victoria, Khu đô thị Văn Phú, Hà Đông là một người mà đối với nhà báo chúng tôi thì là “báu vật sống”. Đó là cụ Giang Hồng Phúc – 93 tuổi, cựu chiến binh Tây Tiến. Cụ là một trong ba người cuối cùng còn sống trong số các cựu chiến binh Tây Tiến mà người ta biết được.
Hai người còn lại là cụ Nguyễn Văn Khuông đã trên 100 tuổi và cụ bà Nguyễn Thị Liêm cũng trên 90. Hai cụ Khuông, Liêm nguyên là người Việt ở Sầm Nưa. Tháng 10/1945, một đại đội Vệ Quốc Quân, một đơn vị “tiền” Tây Tiến giúp Cách mạng Lào đánh đuổi quân Pháp, giải phóng Sầm Nưa, hai người bèn đi theo. Hai cụ Khuông và Liêm đã yếu, khó tiếp chuyện nên tôi đến gặp cụ Phúc.
Cụ Giang Hồng Phúc kể chuyện Tây Tiến
Kỳ diệu là cụ Phúc còn rất khỏe và minh mẫn, cứ như cụ mới bảy mấy, tám mươi. Tôi ngồi với cụ hai tiếng rưỡi đồng hồ không phải vì đợi cơn mưa chiều hôm ấy qua đi mà là vì cụ Phúc mặn chuyện.
Sau câu chuyện với cụ Phúc, tôi mới thoát khỏi tình trạng hiểu lờ mờ về Tây Tiến mà tuyệt đại đa số người bây giờ dù yêu bài thơ “Tây Tiến” đều mắc phải. Khi tôi ra về, cụ Phúc còn vui vẻ cho tôi mượn hai tài liệu quý, đó là cuốn “Tây Tiến một thời và mãi mãi” - hồi ức dày gần 450 trang của các cựu binh Tây Tiến và bản đánh máy phần lịch sử Trung đoàn 52 Tây Tiến thời chống Thực dân Pháp mà cụ Phúc trích ra từ cuốn “Lịch sử Trung đoàn 52 Tây Tiến, Sư đoàn 320 (1947 – 2002)” do NXB Quân đội Nhân dân ấn hành.
Những năm tháng đầu cuộc đời quân ngũ của cụ Phúc trùng khớp với lịch sử của Khu Tây Tiến, Mặt trận Tây Tiến và Trung đoàn 52 Tây Tiến.
Cụ Phúc nhà ở phố Khâm Thiên, Hà Nội. Kháng chiến bùng nổ, toàn quốc kháng chiến, cậu Phúc lúc đó mới có 14 tuổi tham gia Đội Tự vệ phố Khâm Thiên và Ga Hàng Cỏ. Quân Pháp tiến đánh Hà Nội, đội tự vệ chiến đấu anh dũng bảo vệ phố Khâm Thiên được 11 ngày liên tục.
Sau đó, đơn vị lui dần ra đê La Thành, rồi Hà Đông, xuống Cự Đà rồi nhập vào tiểu đoàn 145 của Trung đoàn Thủ đô. Tiểu đoàn này được điều động lên mặt trận Tây Tiến, sau này đổi phiên hiệu thành 164, biên chế vào Trung đoàn 52 Tây Tiến.
Do còn nhỏ, cậu bé Phúc được giao làm liên lạc. Nói liên lạc tưởng đơn giản nhưng đó là một nhiệm vụ nguy hiểm vì thường phải đi một mình, khi có chiến sự lại phải thường tới các đơn vị tuyến đầu. Bộ đội Tây Tiến rất thiếu vũ khí, có giai đoạn ba bốn người mới có một khẩu súng nên chiến sĩ nhí Phúc không được phát súng.
Sau cậu xin được hai quả lựu đạn và một cái lưỡi lê đeo ở thắt lưng và tự cảm thấy rất oai. Đơn vị của Phúc vận động chiến đấu và tuyên truyền vận động nhân dân, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ địa phương ở địa bàn Hòa Bình và Tây Bắc Ninh Bình.
Những năm đầu, các chiến sĩ Tây Tiến ai mang quần áo gì ở nhà đi thì mặc nấy
Đến năm 1950, Mặt trận và Trung đoàn 52 Tây Tiến cơ bản hoàn thành nhiệm vụ. Chiến sĩ Phúc năm đó 19 tuổi được điều động về tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Hòa Bình vừa thành lập sau chuyển thành Tỉnh Đội Hòa Bình.
Ông từng trải qua các cương vị Thị đội trưởng Thị đội thị xã Hòa Bình, Chỉ huy Trưởng ban chỉ huy Quân sự Kim Bôi, Trưởng ban Tác chiến Tỉnh Đội Hòa Bình. Đến đầu những năm 80 thì ông được nghỉ hưu.
Như đã nói ở trên, từ cuối năm 1945, đã có những đơn vị của ta tiến xa về phía Tây, sang tận Lào. Người ta gọi nôm na giai đoạn cuối năm 1945, và năm 1946 là Tây Tiến 1. Khu Tây Tiến và Mặt trận Tây Tiến chính thức được Bộ Tổng Tư lệnh thành lập đầu năm 1947, bao trùm lên các tỉnh Lai Châu (gồm cả Điện Biên), Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình, phía Tây Bắc Thanh Hóa và cả một số vùng lân cận của Lào như Sầm Nưa, Xiêng Khoảng, Sê Pôn.
Đây là khu vực mang ý nghĩa chiến lược vì nếu chiếm được, giặc Pháp sẽ cắt đứt con đường nối chiến khu Việt Bắc với các tỉnh tự do Thanh Hóa, Nghệ An, chặn được đường sang Lào. Tức chúng cắt rời được đầu não kháng chiến với các vùng khác của đất nước. Từ đây có thể uy hiếp Việt Bắc, Thanh - Nghệ và Lào. Đặc biệt đây là khu vực đồng bào nhiều dân tộc ít người, sống biệt lập trên núi cao, thực dân Pháp chủ trương lung lạc, thành lập chính quyền và lực lượng tay sai người bản địa với cái gọi là “Xứ Mường tự trị”, “Xứ Thái tự trị” để chống phá cách mạng nên ngoài nhiệm vụ chiến đấu, quân Tây Tiến còn có nhiệm vụ vận động, tuyên truyền, lôi kéo nhân dân các dân tộc đi theo cách mạng.
Ảnh một số chiến binh Tây Tiến treo trong nhà cụ Giang Hồng Phúc. Hai người ở trên góc phải là các tướng Hoàng Sâm và Lê Hiến Mai - Tư lệnh và Chính ủy Mặt trận Tây Tiến. Chiến sĩ Giang Hồng Phúc là người thứ 3 từ phải sang ở hàng cuối cùng (dùng ảnh chụp sau năm 1954)
Do tính chất đặc biệt quan trọng đó mà không chỉ ra một quyết định, một mệnh lệnh thành lập Mặt trận Tây Tiến và các đơn vị bộ đội Tây Tiến vào cuối tháng 1 đầu tháng 2 năm 1947, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp còn gửi một bức thư dài cho các chiến sĩ Tây Tiến vào ngày 1/2/1947. Trong thư, sau khi nói rõ tầm quan trọng chiến lược của Tây Tiến, Tổng Tư lệnh viết:
“Trên con đường về Miền Tây, các đồng chí sẽ phải lặn lội nơi rừng xanh, suối bạc, ở những địa phương nửa ngày đường không thấy bóng người, thủy thổ không quen thuộc, vật chất thiếu thốn, ngôn ngữ bất đồng, nước độc ma thiêng. Chỉ một việc cất chân lên đường tiến về hướng Tây là đủ tỏ rõ cái chí hi sinh, cái lòng kiên nghị của các đồng chí.
Các đồng chí biết rằng trên mặt trận này phải đương đầu với nhiều hiểm nghèo, khổ sở. Những sự hiểm nghèo, khổ sở có bao giờ chinh phục được lòng anh dũng của những thanh niên hăng hái, có bao giờ chinh phục được chí hướng của một dân tộc”.
Và Tổng Tư lệnh căn dặn bộ đội Tây Tiến ba điều: Một là về cư xử quan hệ với đồng bào thiểu số; Hai là chăm lo sức khỏe của mình; Ba là phải có sáng kiến và kiên tâm trong vận động nhân dân và tiến đánh địch. Tổng Tư lệnh còn căn dặn thêm là “có gặp anh em Lào hay Mèo (Mông) thì phải đứng trên lập trường bình đẳng, tương trợ giúp đỡ cuộc vận động giải phóng của họ mà tiếp xúc, giải quyết mọi vấn đề”.
Những lời căn dặn không chỉ nêu đầu mục mà đều hết sức chi tiết chứng tỏ tầm nhìn và nắm rất vững đặc điểm, tình hình địa bàn của vị Tổng Tư lệnh. Sau này, tình hình diễn ra đúng như những dự liệu trong bức thư của ông.
Năm 2007, gửi thư cho các cựu binh Tây Tiến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại mấy câu thơ ông đã làm khi các chiến binh Tây Tiến lên đường: “Sông Đà, sông Mã uốn dòng/ Gềnh rêu, thác bạc ghi công anh hào/ Sao vàng tung cánh bay cao/ Ngọn cờ chỉ hướng ngôi sao dẫn đường”. Điều đó cho thấy Tổng Tư lệnh dành rất nhiều tâm trí và tình cảm cho công cuộc Tây Tiến.
Khu vực trọng tâm của mặt trận Tây Tiến là tỉnh Hòa Bình. Sau năm 1947 có khá nhiều thành công với một số trận thắng và đặc biệt là xây dựng cơ sở cách mạng và lực lượng trong nhân dân các dân tộc.
Nhưng các năm 1948 và 1949, mặt trận Tây Tiến gặp nhiều khó khăn, tổn thất do địch điều những lực lượng lớn, vượt trội ta nhiều lần mở nhiều gọng kìm tiến công. Trung đoàn Tây Tiến phải đổi chiến thuật, áp dụng phương thức “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”, tránh đụng độ với lực lượng mạnh của địch, đưa các đại đội độc lập và đội vũ trang tuyên truyền luồn sâu vào vùng tạm chiếm làm công tác vận động, xây dựng lại cơ sở cách mạng và lực lượng dân quân, tự vệ địa phương, thuận lợi mới đánh địch. Giai đoạn này, trên cũng điều mấy tiểu đoàn của trung đoàn đi xây dựng các đơn vị chủ lực khác.
Trung đoàn Tây Tiến ít trận đánh lớn nhưng trong muôn vàn gian khổ đã làm được điều rất quan trọng là lôi kéo được nhân dân, giữ vững cho họ niềm tin ở cách mạng, dìu dắt phong trào kháng chiến ở địa phương đi lên.
Đến cuối năm 1949, đầu năm 1950, ta điều lực lượng tiến công giải phóng Mai Châu và hai phần ba tỉnh Hòa Bình. Bộ Tổng tư lệnh chủ trương thành lập các đơn vị bộ đội địa phương để đảm nhận nhiệm vụ chiến đấu tại chỗ, một bộ phận quân Tây Tiến tách ra ở lại xây dựng các tiểu đoàn, đại đội địa phương, còn chủ yếu được điều về vùng dưới cùng các đơn vị khác thành lập Đại đoàn Đồng bằng (Sư đoàn 320 sau này).
Những đơn vị đầu tiên Tây Tiến là của Thủ đô, trong đó có hai tiểu đoàn đã chiến đấu 60 ngày đêm trong lòng Hà Nội. Sau đó, thêm một tiểu đoàn được điều từ Hải Phòng lên và một tiểu đoàn thành lập tại tỉnh Hòa Bình.
Việc đoàn binh Tây Tiến có rất nhiều người Hà Nội và miền xuôi khiến Tây Tiến có cái chất lãng mạn rất đặc biệt, nhưng cũng khiến Tây Tiến là một công cuộc đầy hi sinh bi hùng do các chiến sĩ không quen với khí hậu, thổ nhưỡng, bệnh tật vùng rừng thiêng nước độc, lại phải leo trèo núi cao liên tục trong điều kiện vô cùng thiếu thốn lương thực, thuốc men, vũ khí.
Nhưng các chiến sĩ Tây Tiến thể hiện rõ sự can trường, coi cái chết tựa lông hồng, quyết xả thân vì dân tộc. Tất cả những điều trên được nhà thơ Quang Dũng thể hiện rất trung thực, tài hoa trong bài thơ “Tây Tiến”, một kiệt tác được coi là một trong những tác phẩm hay nhất của cả hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.
*
Quang Dũng tham gia Tây Tiến chỉ trong năm 1947, 1948. Ông lên đường Tây Tiến khi tiếng súng ở Mặt trận Hà Nội còn nổ. Ông thuộc ban chỉ huy một đơn vị đặc biệt của Mặt trận Tây Tiến có tên ban đầu là “Đoàn Võ trang tuyên truyền Tây Tiến” (có tài liệu ghi rõ Quang Dũng là Đoàn phó).
Đơn vị có nhiệm vụ lên các bản làng (hồi đó gọi là động) của đồng bào các dân tộc thiểu số trên núi cao một vệt từ Hòa Bình, Mai Châu, Ninh Bình, Thanh Hóa để tuyên truyền chính sách đại đoàn kết dân tộc và đường lối kháng chiến của Chính phủ Cụ Hồ, vận động nhân dân đi theo cách mạng. Đoàn nhanh chóng có sự tham gia của một trung đội bộ đội Lào nên được đổi tên thành “Đoàn Võ trang Tuyên truyền Biên khu Lào - Việt”.
Trong vòng ba bốn tháng, Đoàn có ba trung đội, gồm trung đội bộ binh Việt, trung đội Lào và trung đội nhạc binh 40 tay kèn, trống (trong đội này do nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên chỉ huy) đã trèo lên khoảng “một trăm động Mán”, tuyệt đại đa số đều cao trên núi, leo ít thì vài giờ, lâu thì vài ngày liên tục, người cúi khom khom, chúi về phía trước mà leo.
Gặp dân thì tuyên truyền chính sách mới, vận động dân theo Bác Hồ, theo Cách mạng, mở các đêm hội, đêm liên hoan diễn kịch, hát cho dân và cùng dân. Kịch thì thường rất đơn giản, thực ra là các tiểu phẩm. Đoàn còn hướng dẫn dân đào hầm tránh máy bay, thực hiện nếp sống vệ sinh…
Các chiến sĩ của Đoàn bắt đầu thực hiện nhiệm vụ từ Suối Rút (Hòa Bình), cuốc bộ, leo trèo núi xuyên đến tận Sài Khao, Pha Luông của huyện Mường Lát (Thanh Hóa), giáp biên giới Lào. Từ vùng núi Tây Thanh Hóa giáp Lào, Đoàn được rút về Hòa Bình.
Từ đây, phần lớn trung đội Lào được cử đi học quân chính, đào tạo thành cán bộ trung đội; Trung đội nhạc binh điều lên Việt Bắc, xây dựng thành đội lễ nhạc của Bộ Tổng Tham mưu; Trung đội bộ binh còn lại được cử luồn vào vùng địch hậu Hòa Bình để vừa chiến đấu vừa xây dựng phong trào kháng chiến.
Quang Dũng thuộc nhóm cán bộ được rút đi xây dựng các đơn vị chiến đấu khác. Cuối năm 1948, ông được bổ nhiệm làm trưởng tiểu ban Tuyên huấn của trung đoàn 52. Sau đó ông trở thành Đoàn trưởng Đoàn văn nghệ Liên khu III. Tháng 8 năm 1951, ông xuất ngũ chuyển sang công tác khác.
Tây Tiến để lại ký ức sâu đậm trong Quang Dũng nên ông để lại hai tác phẩm quan trọng về giai đoạn này. Đó là bài thơ “Tây Tiến” viết mùa xuân năm 1948 và truyện ký “Đoàn Võ trang Tuyên truyền Biên khu Lào - Việt” viết khoảng đầu những năm 50 mãi mấy năm trước đây mới được xuất bản dưới cái tên “Đoàn binh Tây Tiến” (đoạt giải A Giải thưởng Sách Quốc gia năm 2020). Với hai tác phẩm này, Quang Dũng là người viết sử đầu tiên cho Tây Tiến, và viết tài hoa đến mức tinh thần Tây Tiến sẽ được lưu truyền mãi.
Tây Tiến có lẽ là một cơ cấu (viết như thế vì Tây Tiến vừa là một khu, một mặt trận, vừa là một trung đoàn trong Kháng Pháp) hiếm hoi mà khi Ban Liên lạc Cựu chiến binh không thể hoạt động nữa (do gần hết người, số ít người còn sống thì quá già yếu) thì con cháu nhận cây gậy tiếp sức lập Ban Liên lạc Truyền thống Tây Tiến. Ban này do chị Bùi Phương Thảo, con gái nhà thơ Quang Dũng làm trưởng ban, gồm toàn con cháu của các chiến binh Tây Tiến, hàng năm đều có những hoạt động rất ý nghĩa để tôn vinh và phát huy truyền thống vinh quang của bộ đội Tây Tiến mà một trong số đó là tự đóng góp tiền để làm công trình bia đá kỷ niệm Tây Tiến ở bản Sài Khao, Mường Lý, Thanh Hóa, nơi được lưu danh sử sách bởi câu thơ Quang Dũng: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”.
Quang Dũng
Tây Tiến
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
*
Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
*
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
*
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Phù Lưu Chanh, 1948
Lê Xuân Sơn