GNO - Tôi học kinh Trung bộ (số 64. Ðại kinh Mālunkyā), Đức Phật dạy về pháp tu đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, chứng Tam quả A-na-hàm. Tôi nhận ra cách tu tập niệm Phật, cầu vãng sinh của tông Tịnh Độ có phần tương ưng với lộ trình tu tập của kinh này. Mong được quý Báo nhận định và sẻ chia.
(HIỀN NGUYÊN, ngthien…@gmail.com)
Bạn Hiền Nguyên thân mến!
Tịnh Độ là một tông phái lớn của Phật giáo Đại thừa, với pháp tu căn bản là niệm Phật nhất tâm để thành tựu vãng sinh Tịnh độ Cực lạc. Những hành giả có thiện căn sâu dày, từ niệm Phật nhất tâm có thể phát huy tuệ giác vô ngã, thể nhập tự tính Di Đà, Tịnh độ hiện tiền.
Tịnh độ là quốc độ thanh tịnh, cõi nước an lạc. Kinh Phật ghi nhận nhiều cõi Tịnh độ khác nhau, Tịnh độ Tây phương (Phật A Di Đà), Tịnh độ Đông phương (Phật Dược Sư), Tịnh độ Đâu-suất (Dục giới - Bồ-tát Di Lặc), Tịnh độ Ngũ tịnh cư thiên (Sắc giới - chư Thánh A-na-hàm trở lên).
Ðại kinh Mālunkyā, Đức Phật giới thiệu lộ trình tu tập đoạn trừ năm hạ phần kiết sử (thân kiến, giới cấm thủ, nghi, tham dục, sân), đầu tiên là thành tựu Sơ thiền. “Này Ananda, Tỷ-kheo do viễn ly các sanh y, do đoạn trừ các bất thiện pháp, do làm cho an tịnh thân thô ác hành một cách toàn diện, ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”. Đặc điểm của thiền chứng này là ly dục, năm thiền chi tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm đều có mặt. Người tu niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn (cận hành và an chỉ) có thể xem tương ứng với Sơ thiền này.
Kế đến, Ðại kinh Mālunkyā dạy về thiền quán vô ngã. “Vị này chánh quán mọi sắc pháp, thọ pháp, tưởng pháp, hành pháp, thức pháp là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như điều bất hạnh, như bệnh chướng, như kẻ địch, như phá hoại, là không, là vô ngã. Vị này giải thoát tâm khỏi các pháp ấy”. Đây chính là thiền tuệ, minh sát về ngũ uẩn là không, vô thường, vô ngã.
“Sau khi giải thoát tâm khỏi các pháp ấy, vị ấy tập trung tâm vào bất tử giới (Amatadhatu) và nghĩ rằng: ‘Ðây là tịch tịnh, đây là vi diệu, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự xả ly tất cả sanh y, sự ái diệt, vô tham, đoạn diệt, Niết-bàn’. Nếu an trú vững chắc ở đây, vị này đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc. Nếu vị ấy không đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc, thời do sự tham pháp, hỷ pháp của mình, thời do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sinh, nhập Niết-bàn ở đấy, không phải trở lui đời này nữa”.
Có thể thấy, từ nền tảng của nhất tâm, hành giả phát huy thiền quán vô ngã có thể chứng A-la-hán ngay hiện đời. Nếu chỉ đoạn năm hạ phần kiết sử thì đắc Tam quả Bất lai, hóa sinh về Ngũ tịnh cư thiên và chứng A-la-hán tại đây.
Trở lại pháp tu niệm Phật của Tịnh Độ tông, niệm Phật thuộc thiền chỉ, sau mỗi thời công phu đều có tụng Tâm kinh nhằm “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” chính là thiền quán. Nếu định tuệ hay chỉ quán đầy đủ, hành giả có khả năng thể nhập tự tính Di Đà, tịnh độ hiện tiền, giải thoát ngay trong hiện tại. Nếu chưa thể nhập tự tính Di Đà thì nguyện sinh về Cực lạc, tiếp tục tu tập đến giác ngộ, giải thoát.
Cõi Cực lạc có cảnh sắc tráng lệ, vi diệu như Ngũ tịnh cư thiên. Sinh về Cực lạc có đặc tính thù thắng là bất thoái chuyển (không trở lại Ta-bà) cũng giống như hóa sinh vào cõi Bất lai (Tịnh cư thiên còn gọi Bất hoàn thiên, không sinh lại Dục giới). Ở Bất hoàn thiên chỉ có các bậc Thánh A-na-hàm và A-la-hán. Cũng vậy, cõi Cực lạc chỉ toàn bậc “thượng thiện nhân”. Đã sinh về Bất lai thì chắc chắn sẽ chứng A-la-hán. Tương tự vậy, đã sinh về Cực lạc thì chắc chắn sẽ thành tựu giác ngộ.
Dựa vào những phân tích ở trên, chúng ta thấy về đại thể có tương đồng giữa pháp tu và quả chứng của Ðại kinh Mālunkyāvā pháp môn niệm Phật. Người tu niệm Phật có thể y cứ kinh này để từ niệm Phật nhất tâm, phát huy thiền quán về ngũ uẩn giai không, đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, thành tựu vãng sinh, bất thoái chuyển.
Chúc bạn tinh tấn!
Tổ Tư vấn Báo Giác Ngộ (tuvangiacngo@yahoo.com)