Phật giáo Việt Nam và vai trò điều tiết của Phật pháp

Phật giáo Việt Nam và vai trò điều tiết của Phật pháp
3 giờ trướcBài gốc
Chức năng điều tiết của văn hóa trong sự vận động và phát triển xã hội hiện đại (Bài 5): Vai trò của điều tiết trong văn hóa dân gian Việt NamChức năng điều tiết của văn hóa trong sự vận động và phát triển xã hội hiện đại (Bài 4): Từ giá trị đến chuẩn mực văn hóa trong xã hội đương đạiChức năng điều tiết của văn hóa trong sự vận động và phát triển xã hội hiện đại (Bài 3): Nền móng tự điều tiết của đời sống văn hóa ViệtChức năng điều tiết của văn hóa trong sự vận động và phát triển xã hội hiện đại: Nhận diện văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí MinhChức năng điều tiết của văn hóa trong sự vận động và phát triển xã hội hiện đại: Bài 1 - Nhận diện văn hóa từ căn cốt đến năng lực điều tiết
Chùa Keo sở hữu nét kiến trúc thuần Việt
Giá trị điều tiết cốt lõi của Phật giáo Việt Nam
Đầu tiên, chúng tôi hỏi một người nông dân khoảng 40, 45 tuổi vì sao ông tụng kinh; ông trả lời vui vẻ rằng đời sống của ông và gia đình còn nghèo khổ, mỗi lần tụng kinh, niệm Phật thì thấy thanh thản hơn, vui hơn.
Gặp một người là nhà khoa học có tiếng cũng đi lễ chùa, trả lời câu hỏi như trên, ông điềm tĩnh nói rằng, từ xa xưa Aristoteles đã nói văn hóa là sự thanh lọc tâm hồn, cuộc đời thực phức tạp quá, nên đi lễ chùa giúp tìm sự thanh thản để làm việc và tìm sự cân bằng trong cuộc sống. Chúng tôi nghĩ đây là một biểu hiện của văn hóa Việt.
Có những suy nghĩ, cảm nhận gặp nhau giữa người nông dân nghèo và nhà khoa học. Người nông dân nói đến chùa để tìm sự thanh thản, tạm quên đi cuộc sống còn nghèo khổ, túng thiếu. Nhà khoa học đi lễ chùa để tìm sự thanh lọc tâm hồn, tạm quên đi cuộc đời thực còn lắm nỗi ưu tư cũng như nhiều phức tạp; cả hai đều có mục đích sống vui hơn, có ích hơn.
Như vậy, có sự tương đồng trong cảm nhận của hai con người ở những hoàn cảnh sống, công việc, vị trí xã hội khác nhau với chung một mục tiêu, cũng là nội dung vô cùng quan trọng và thiết yếu của Phật pháp được thể hiện trong Pháp cú: Chấm dứt mọi hành động bất thiện; Phát triển những hành động thiện; Thanh lọc tâm; Đó là lời dạy của tất cả chư Phật...
Thanh lọc tâm là triết lý và yêu cầu thực hành đặc trưng nhất của Phật giáo nói chung và của Phật giáo khi vào Việt Nam nói riêng. Phật giáo vào Việt Nam đã được “Việt hóa” qua hàng nghìn năm lịch sử, mà thành tựu và đỉnh cao nhất là Thiền phái Trúc Lâm do Thượng hoàng Trần Nhân Tông sáng lập.
Bản chất và chiều sâu giá trị văn hóa của thanh lọc tâm hồn là sự kiên trì liên tục tu thân vươn lên cái hoàn thiện, là sự tự kiểm soát, tự điều tiết không ngừng để tự thanh lọc, bởi “chính ta làm cho ta trong sạch và chính ta làm cho ta ô nhiễm”.
Triết lý Phật pháp trong đời sống Việt
Như vậy, ngay từ xa xưa, trong Phật pháp đã đề cập đến một nội dung hoàn toàn phù hợp với thuật ngữ khoa học mới: Sự điều tiết. Trong Atthasàlini, trang 63 và The Expositor, phần I, trang 91 đã ghi lại sự căn dặn này: “Khi không điều phục được tâm tức nhiên không thể kiềm chế được việc làm, lời nói và tư tưởng. Điều phục tâm tức kiềm chế thân, khẩu, ý” (trích theo Narada Maha Thera: Đức Phật và Phật pháp, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2003, tr.343).
Không còn nghi ngờ gì nữa, điều phục kiềm chế thực chất là sự điều tiết. Một trong những nguyên tắc căn cốt nhất của Phật giáo là lấy con người làm gốc, mục tiêu Phật giáo - theo cách tư duy và triết lý của mình - là làm cho con người tự vượt qua mình, “tự chống lại mình” (bởi trong con người luôn trộn lẫn tốt - xấu, thiện - ác, và bởi cái trộn lẫn ấy luôn “ngủ ngầm” bên trong con người) để con người vươn lên sự hoàn thiện, trở nên “Người” hơn.
Ở đây, gắn với một triết lý rất quan trọng của Phật pháp. Trở nên “Người” hơn không phải là tìm mọi cách đạt được sự hoàn thiện trừu tượng, mà là biết “tri túc”. Biết đủ là đủ, không chạy theo những ham muốn không có giới hạn “tham, sân, si”. Vai trò của điều tiết là vô cùng quan trọng đối với Phật giáo. Đó chính là cơ sở tạo nên đặc trưng tốt đẹp trong văn hóa Phật giáo Việt Nam, và vì vậy, văn hóa Phật giáo trở thành một bộ phận hữu cơ trong văn hóa Việt Nam, từ quá khứ tới hiện tại.
Mặt khác, văn hóa Phật giáo không dừng lại trên bình diện lý thuyết, triết lý mà đi sâu vào đời sống, nếp nghĩ và hành vi của nhiều người và đó là văn hóa thực hành, “nhập thế”. Điều này chi phối vai trò điều tiết của văn hóa Phật giáo với giá trị thực tiễn của nó.
Theo ý nghĩa đó, nội dung quan trọng của Phật pháp chính là giá trị văn hóa thực hành, không dừng lại ở van vái, nguyện cầu mà phải “liên tục và kiên trì nỗ lực... tự kiểm soát, tự thanh lọc và giác ngộ” (trích theo Narada Maha Thera: Đức Phật và Phật pháp, Sđd, tr.8). Tín ngưỡng suông không thể thanh lọc thân tâm con người. Trong Kinh Cú pháp, câu 145, Đức Phật căn dặn: “Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm/ Chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gột rửa cho ta/ Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta/ Không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch”.
Văn hóa Phật giáo đã tập trung khẳng định sức mạnh tự điều tiết là như vậy, hay nói một cách khác, chức năng tự điều tiết (tự kiểm soát, tự thanh lọc) trở thành một đặc trưng nổi bật nhất trong văn hóa Phật giáo, trong Phật pháp (từ “Phật pháp” - Ohamma - từ căn nguyên của nó nghĩa là nâng đỡ hay giữ lại. “Nâng đỡ” người hành động đúng theo quy tắc, hay “giữ lại” nghĩa là không để cho người hành động đúng theo quy tắc rơi vào những trạng thái đau khổ).
Nền tảng điều tiết trong văn hóa Phật giáo
Như vậy, tự điều tiết thực chất là cuộc đấu tranh liên tục, kiên trì, thầm lặng và bền bỉ giữa ba cặp phạm trù nổi tiếng trong Phật pháp: Tham (lobha), sân (dosa) và si (moha) với không tham (alobha), không sân (adosa) và không si (amoha), được nhà Phật khái quát thành hai phạm trù “bất thiện pháp” và “thiện pháp”. Đây chính là sự điều tiết trong lĩnh vực văn hóa đạo đức - một nội dung giữ vai trò, vị trí bao trùm trong Phật pháp (5 giới, 4 trạng thái cao thượng, 10 phẩm hạnh và 8 chính đạo). Vậy, thực hành sự điều tiết như thế nào để đạt được các chuẩn mực đạo đức, luân lý trên?
Ta hãy nghe lời giải đáp của Đức Phật cho La Hầu La: “Nếu có điều con muốn làm, nay hỡi La Hầu La, hãy nghĩ vầy: Điều này có hại cho ta hay cho kẻ khác, hay điều này có hại cho kẻ khác và cho ta. Vậy đó là một hành động xấu, sẽ đem lại đau khổ. Cần phải hết sức cố gắng tránh làm điều ấy. Nếu có điều nào con muốn làm, nay hỡi La Hầu La, hãy nghĩ vầy: Điều này không có hại cho ta, không có hại cho ai khác, hay điều này không có hại cho kẻ khác và cho ta. Vậy đó là hành động tốt, sẽ đem lại hạnh phúc. Hành động ấy, con phải làm và lặp đi lặp lại nhiều lần”. Đó chính là giá trị thực sự của quan niệm về chức năng và thực hành điều tiết trong văn hóa Phật giáo.
Chính vì nhân tố tích cực và nhân văn sâu đậm trên mà văn hóa Phật giáo Việt Nam đã từ lâu đồng hành cùng dân tộc. Chọn lọc những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp và độc đáo này để góp phần xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam hiện đại là một yêu cầu, một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
(Còn tiếp)
GS.TS ĐINH XUÂN DŨNG
Nguồn Văn hóa : http://baovanhoa.vn/van-hoa/phat-giao-viet-nam-va-vai-tro-dieu-tiet-cua-phat-phap-187100.html