Trong khi bằng chứng đáng tin cậy về Atlantis vẫn còn khó nắm bắt, các nhà khoa học hiện đã phát hiện ra những manh mối địa hóa học ủng hộ lý thuyết về sự kiện thảm khốc này, được gọi là Younger Dryasn.
Các nhà nghiên cứu do Đại học South Carolina dẫn đầu vừa phát hiện bằng chứng địa hóa dưới đáy biển có thể liên quan tới một thảm họa cổ đại được cho là góp phần vào sự sụp đổ của thành phố bị thất lạc Atlantis.
Một số chuyên gia, trong đó có nhà văn nổi tiếng Graham Hancock, lâu nay đã đề xuất rằng khoảng 12.800 năm trước, một thiên thạch khổng lồ đi qua bầu khí quyển Trái Đất, gây nên thảm họa phá hủy các nền văn minh tiên tiến trên toàn cầu.
Giả thuyết va chạm Younger Dryas (Younger Dryas Impact Hypothesis — YDIH) cho rằng Trái Đất đã đi qua đám mảnh vỡ từ một sao chổi bị tan rã.
Những va chạm và sóng xung kích phát sinh đã làm mất ổn định các tảng băng khổng lồ, gây ra lũ lụt lớn làm xáo trộn các dòng hải lưu và dẫn tới sự hạ nhiệt nhanh chóng của khí hậu.
Các nhà khoa học đã tìm thấy bằng chứng về một sao chổi đã đâm xuyên qua bầu khí quyển Trái Đất cách đây 12.800 năm. Điều này phù hợp với Giả thuyết Va chạm Younger Dryas gây tranh cãi. Hình ảnh là các vi cầu có đặc tính ngoài Trái Đất.
Phát hiện ở Baffin Bay củng cố lập luận va chạm sao chổi
Hiện nay, các nhà nghiên cứu do Đại học South Carolina dẫn đầu đã tìm thấy mảnh vụn kim loại, bao gồm bụi sao chổi và hàng nghìn hạt vi cầu nhỏ (microspherules), trong trầm tích đáy biển Baffin Bay, góp phần làm mạnh thêm giả thuyết va chạm sao chổi.
Nhà khảo cổ học ông Marc Young, đồng tác giả nghiên cứu, nói rằng giai đoạn khởi phát Younger Dryas liên quan tới những thay đổi đáng kể về động học dân số con người trên toàn hành tinh, mặc dù chủ yếu ở bán cầu Bắc.
Nhiều nghiên cứu độc lập trong vài năm qua đã chỉ ra một cách thuyết phục rằng hầu hết các loài megafauna tuyệt chủng đã biến mất chính xác vào thời điểm đó.
Nhiều nhà khoa học chính thống lập luận rằng sự hạ nhiệt này không phải do sao chổi mà là hệ quả của nước tan từ băng hà chảy tràn vào Đại Tây Dương. Dòng nước ngọt khổng lồ đó làm suy yếu các dòng hải lưu vận chuyển nước ấm từ vùng nhiệt đới lên phía Bắc, dẫn đến giảm nhiệt độ.
Tuy nhiên, ông Marc Young nhấn mạnh rằng “các sự kiện hạ nhiệt như vậy đã xảy ra hàng chục lần trong 100.000 năm qua, nhưng không lần nào gây tuyệt chủng megafauna, xóa sổ dân số con người hay để lại một lớp mảnh vụn va chạm toàn cầu như thời điểm Younger Dryas.”
Ông còn nói rằng lượng nước tan vào đại dương tại thời điểm Younger Dryas lớn hơn nhiều so với các sự kiện trước đó, gây nên mực nước biển tăng gần như tức thì hơn 4,9 m.
Những lõi trầm tích mà nhóm nghiên cứu phân tích hoạt động như các hồ sơ lịch sử, lưu giữ lớp bùn, cát và các hạt lắng đọng qua hàng thiên niên kỷ.
Bốn lõi được lấy từ các vị trí trải dài khoảng 998 km trên Baffin Bay, từ vùng nước nông gần Jones Sound đến khu vực sâu hơn gần Davis Strait, ở độ sâu nước dao động từ khoảng 500 m đến khoảng 2.400 m.
Bốn lõi được thu thập từ các địa điểm trải dài khoảng 1000km trên Vịnh Baffin, từ vùng nước nông gần Jones Sound đến các khu vực sâu hơn gần Eo biển Davis
Hạt vi cầu, thủy tinh nóng chảy và dấu vết kim loại hiếm
Trong các lớp trầm tích có niên đại khoảng 12.800 năm trước, các nhà khoa học phát hiện những hạt hình cầu rất nhỏ giàu sắt và giàu silica, được gọi là hạt vi cầu.
Những hạt này hình thành trong điều kiện nhiệt độ rất cao, với bong bóng, hoa văn nhánh trên bề mặt và hình dạng khí động học cho thấy chúng đã bay với tốc độ lớn trong không khí.
Các hạt giàu sắt này còn chứa các giọt nhỏ của một kim loại trong môi trường ít oxy, có tính chất hóa học nằm giữa chromite và chromium-magnetite — những khoáng vật thường thấy trong một số loại thiên thạch và vật liệu va chạm.
Dẫn đầu là ông Christopher R. Moore, nhóm nghiên cứu cũng phát hiện một đỉnh đột ngột trong hàm lượng bạch kim — một nguyên tố hiếm thường được làm giàu trong các sự kiện va chạm ngoài trái đất — tại cùng các lớp trầm tích chứa hạt vi cầu và bụi sao chổi.
Ngoài ra, các mảnh thủy tinh nóng chảy và các hạt tinh thể cũng được tìm thấy, bao gồm các cụm nóng chảy kèm hạt giàu sắt và thạch anh đã tan chảy hoặc sôi ở nhiệt độ rất cao. Những mẫu này bao gồm thủy tinh giàu sắt, crôm, kali và titan.
Các mẫu còn ghi nhận những giọt nhỏ của chromite nóng chảy, hợp kim sắt-crôm-niken, oxide sắt và tungstene bám dính vào các hạt thạch anh và magnetite lấy từ các lớp ranh giới Younger Dryas trong lõi.
Những giọt kim loại này chủ yếu gồm niken nguyên chất, hợp kim sắt-crôm-niken và chromite, và trông rất giống các vết bắn nóng chảy trên khoáng vật từng được phát hiện ở South Carolina, trước đây đã được xác định là các hạt bụi sao chổi.
Ông Marc Young nhấn mạnh tầm quan trọng của bằng chứng thu được từ biển: “Cho tới nay, chưa có lõi trầm tích đại dương nào được sử dụng để kiểm tra Giả thuyết Va chạm Younger Dryas. Đây là bằng chứng địa hóa duy nhất dựa trên dữ liệu đại dương cho giả thuyết kể từ khi nó được đề xuất năm 2007.
“Quan trọng là đây là lần đầu tiên ai đó khảo sát, và việc tìm thấy chứng cứ ở ngay lần thử đầu tiên là rất hứa hẹn. Về mặt kỹ thuật, chúng tôi có tỷ lệ tái lập 100% trong các lõi đại dương dựa trên dữ liệu này.” – ông nói.
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cũng cảnh báo rằng các phát hiện chỉ chỉ ra một dị thường địa hóa xuất hiện vào thời điểm Younger Dryas bắt đầu, chứ không đưa ra bằng chứng trực tiếp khẳng định va chạm.
Cần thêm nghiên cứu để xác nhận liệu những phát hiện này thực sự là bằng chứng va chạm và để liên kết chắc chắn một va chạm với sự hạ nhiệt khí hậu.
Theo Daily Mail
Hải Yến