Sản xuất giày xuất khẩu tại Công ty Ever Great, CCN Gia Vân (xã Gia Vân).
Bức tranh hiện trạng các cụm công nghiệp
Từ năm 2016 đến 2024, ngành công nghiệp tại khu vực Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 13,25%/năm, vượt xa mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế vùng là 8,75%/năm. Đến năm 2024, ngành công nghiệp chiếm 39,2% trong cơ cấu GRDP, cao hơn cả ngành dịch vụ (32,5%) và nếu tính thêm ngành xây dựng, tỷ trọng đạt tới 47,9% GRDP. Con số này cho thấy vai trò then chốt của công nghiệp trong nền kinh tế vùng, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp thiết về tổ chức lại không gian sản xuất để phù hợp xu thế tăng trưởng xanh, tuần hoàn và gắn kết vùng.
Đi cùng với sự phát triển đó là hệ thống các CCN ngày càng mở rộng, được quy hoạch bài bản theo từng địa phương. Trong giai đoạn quy hoạch 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, tổng số CCN được quy hoạch trên toàn địa bàn hợp nhất là 115 cụm, với tổng diện tích hơn 5.400ha. Cụ thể, tỉnh Hà Nam (cũ) quy hoạch 21 CCN với diện tích khoảng 1.035ha. Đến cuối năm 2024, địa phương này đã thành lập 19 cụm, trong đó 14 cụm đã đi vào hoạt động, đạt tỷ lệ lấp đầy trung bình lên tới 98%, tạo việc làm cho 12.325 lao động. Tuy nhiên, chỉ 3 CCN trên địa bàn được đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung, trong đó có 2 CCN đạt tiêu chuẩn môi trường.
Nam Định (cũ) là tỉnh có quy mô quy hoạch lớn nhất trong 3 địa phương với 70 CCN, tổng diện tích 3.178,5ha. Đến thời điểm hiện tại, tỉnh đã thành lập 36 CCN, trong đó 20 cụm đã đi vào hoạt động, thu hút được 545 dự án đầu tư và tạo việc làm cho hơn 20.900 lao động. Điểm đáng ghi nhận là 5 CCN tại Nam Định đã được đầu tư trạm xử lý nước thải tập trung, trong đó 3 trạm đã vận hành ổn định, góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường.
Về phía Ninh Bình (cũ), tỉnh quy hoạch 24 CCN với tổng diện tích 1.253,7ha. Tính đến cuối năm 2024, đã có 17 cụm được thành lập và 13 cụm đi vào hoạt động. Với 362 dự án đầu tư đang triển khai, các CCN này đã tạo việc làm cho trên 30.000 lao động. Đáng chú ý, có 8 CCN đã và đang đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung, trong đó 5 CCN đã đạt chuẩn theo quy định hiện hành.
Tổng thể, toàn tỉnh Ninh Bình sau sáp nhập đã có 47 CCN đi vào hoạt động với mức độ phát triển tương đối đồng đều giữa các địa phương thành phần. Điểm tích cực là một số địa phương đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn (Nam Định có 3 CCN; Ninh Bình có 5 CCN). Hệ thống CCN đang ngày càng khẳng định vai trò là mắt xích quan trọng trong chuỗi phát triển, đặc biệt tại các địa phương vốn có lợi thế về vị trí địa lý, lao động và truyền thống sản xuất.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, không ít CCN vẫn đang gặp khó khăn về tiến độ đầu tư hạ tầng, nhất là hệ thống xử lý môi trường chưa đồng bộ, còn thiếu các cụm theo chuyên ngành hoặc chuỗi giá trị cụ thể. Mặt khác, tại nhiều khu vực nông thôn và ven đô, mô hình sản xuất làng nghề còn phân tán, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm và thiếu hiệu quả trong khai thác tài nguyên đất đai. Bên cạnh đó, cơ cấu ngành nghề sản xuất chưa định hướng rõ ràng theo chuỗi giá trị hoặc liên kết vùng, dẫn tới việc khai thác tiềm năng còn manh mún, thiếu bền vững.
Việc sáp nhập 3 tỉnh mở ra cơ hội vàng để tích hợp quy hoạch, rà soát không gian phát triển CCN liên vùng một cách bài bản. Điều này giúp kết nối hệ thống CCN trở thành vệ tinh hiệu quả cho các KCN lớn như các KCN: Đồng Văn, Bảo Minh, Khánh Phú, Gián Khẩu… đang thu hút các dự án có tính chiến lược cho sự phát triển của ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Sản xuất thú bông tại Công ty TNHH MTV Master ViNa CCN Đồng Hướng (xã Quang Thiện). Ảnh: Trường Huy
Hướng tới cụm công nghiệp xanh, thông minh và bản sắc
Bà Nguyễn Thị Hoa, Trưởng phòng Phát triển CCN, Cục Đổi mới sáng tạo, chuyển đổi xanh và khuyến công, Bộ Công Thương cho biết: Định hướng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, ngành công nghiệp vùng hợp nhất xác định phát triển CCN theo 4 mô hình chủ lực: CCN chuyên ngành theo chuỗi giá trị, CCN sinh thái, công nghệ cao, CCN làng nghề sinh thái và CCN hỗn hợp gắn với đô thị, nông nghiệp, dịch vụ.
Theo đó, đại diện Cục Đổi mới sáng tạo, chuyển đổi xanh và khuyến công cũng gợi ý giai đoạn 2025-2030, tỉnh triển khai thí điểm từ 1-2 CCN chuyên ngành tại các khu vực trung tâm, trong đó ưu tiên ngành cơ khí, lắp ráp, dệt may, phụ trợ, logistics và chế biến nông, thủy sản. Các CCN này không chỉ gia tăng giá trị nội vùng mà còn giúp các KCN lớn tập trung vào sản phẩm mũi nhọn, nâng cao năng lực cạnh tranh. Song song với đó, địa phương cần chú trọng hình thành các CCN sinh thái, công nghệ cao nhằm thúc đẩy mô hình sản xuất tuần hoàn với công nghệ xử lý nước thải, năng lượng tái tạo, logistics xanh…
Đồng chí Vũ Văn Hưng, Giám đốc Trung tâm Khuyến công, xúc tiến thương mại và phát triển CCN, Sở Công Thương cho biết: Tỉnh Ninh Bình xác định, ngành công nghiệp tiếp tục là động lực chính thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh theo hướng hiện đại, dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ tiên tiến, ưu tiên công nghiệp sạch, bền vững, thân thiện với môi trường. Do vậy, một hướng đi giàu bản sắc và tiềm năng phát triển sinh kế là mô hình CCN làng nghề sinh thái.
Ông Hưng cho rằng: “Thay vì để các cơ sở làng nghề sản xuất phân tán, mô hình này sẽ tập trung hóa, tạo ra chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến, trưng bày, du lịch, đồng thời áp dụng công nghệ sạch như tuần hoàn nước, tiết kiệm năng lượng, từ đó vừa bảo vệ môi trường, vừa bảo tồn văn hóa và tạo sinh kế bền vững cho người dân bản địa”. Các mô hình mới này đều nhằm hiện thực hóa mục tiêu đưa CCN trở thành không gian sản xuất đa chức năng, hỗ trợ cho công nghiệp lớn, đồng thời đảm bảo mục tiêu kép: phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng xanh và chuyển đổi số.
Để hiện thực hóa những định hướng trên, cần sự vào cuộc đồng bộ từ thể chế đến hạ tầng và năng lực của các nhà đầu tư. Trước hết, chính quyền địa phương hai cấp sau sáp nhập cần khẩn trương rà soát, tích hợp lại quy hoạch phát triển CCN liên tỉnh để đảm bảo sử dụng đất hiệu quả, gắn với chiến lược phát triển bền vững quốc gia và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, cải cách thủ tục hành chính, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, ưu đãi đầu tư có chọn lọc là chìa khóa để thu hút các doanh nghiệp hạ tầng có năng lực thực sự. Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thứ cấp, đối tượng chiếm tỷ trọng lớn trong các CCN về vốn, công nghệ, môi trường sản xuất để khuyến khích đầu tư vào các ngành nghề sử dụng công nghệ cao, sạch, tiêu tốn ít năng lượng và có giá trị gia tăng cao.
Nhìn về tương lai, các CCN xanh, thông minh sẽ không còn là không gian sản xuất đơn thuần, mà là trung tâm liên kết vùng, vùng đệm sinh thái cho công nghiệp lớn và động lực phát triển bền vững cho tỉnh Ninh Bình mới, một cực tăng trưởng phía Nam Đồng bằng Sông Hồng đang vươn mình trong hành trình hội nhập và chuyển đổi.
Bài, ảnh: Nguyễn Thơm