Bộ Xây dựng vừa trình Chính phủ dự thảo Nghị định về phát triển đô thị thông minh, nhấn mạnh đây là bước đi cần thiết nhằm tạo hành lang pháp lý thống nhất, giải quyết những vướng mắc thực tiễn và khai thác tối đa nguồn lực đang được ưu tiên cho lĩnh vực này.
Cấp bách hoàn thiện khung pháp lý cho đô thị thông minh
Theo Bộ Xây dựng, cơ sở chính trị của việc ban hành Nghị định đã được xác lập rõ ràng trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/1/2022 của Bộ Chính trị đặt mục tiêu đến năm 2030 hình thành mạng lưới đô thị thông minh trung tâm cấp quốc gia và cấp vùng, kết nối quốc tế; hoàn thiện khung pháp lý và thúc đẩy mô hình quản lý thông minh trong vận hành, khai thác hạ tầng kỹ thuật đô thị; đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với xây dựng chính quyền số ở đô thị.
Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ hoàn thành xây dựng đô thị thông minh tại các thành phố trực thuộc Trung ương và các tỉnh đủ điều kiện, phát triển hệ thống giám sát, điều hành thông minh nhằm nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia và hiệu lực quản lý nhà nước.
Ảnh minh họa: Thanh Lam
Cơ sở pháp lý cũng được bảo đảm bởi hàng loạt luật và nghị quyết mới ban hành, từ Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, đến các văn bản về giao thông thông minh, phát triển hạ tầng số, chuyển đổi số và khuyến khích áp dụng công nghệ cao. Đặc biệt, Nghị quyết số 193/2025/QH15 và Nghị định số 88/2025/NĐ-CP đã mở ra cơ chế, chính sách đặc thù, tháo gỡ rào cản về đấu thầu, mua sắm và lựa chọn nhà đầu tư cho các dự án công nghệ cao.
Trên thực tế, sau hơn 7 năm triển khai Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững (Quyết định 950/QĐ-TTg năm 2018), cả nước đã có 37 địa phương ban hành đề án hoặc kế hoạch phát triển đô thị thông minh, tập trung vào các lĩnh vực như trung tâm điều hành thông minh (IOC), giao thông thông minh, chiếu sáng thông minh, dữ liệu GIS, dịch vụ công trực tuyến. Nhiều tiện ích mới đã mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, doanh nghiệp và cơ quan quản lý.
Tuy nhiên, triển khai còn tồn tại 4 nhóm hạn chế lớn: thiếu thống nhất về nhận thức và cách làm; thiếu tiêu chuẩn, quy chuẩn, dữ liệu chuẩn hóa và cơ chế chia sẻ; thiếu cơ chế đặc thù cho mua sắm, đấu thầu công nghệ; thiếu nguồn lực đầu tư và nhân lực chuyên môn. Phần lớn các mô hình mới dừng ở quy mô thí điểm, chưa có tính kết nối, đồng bộ cao.
Bộ Xây dựng khẳng định, từ các cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn nêu trên, việc xây dựng Nghị định là cấp bách, không chỉ để khắc phục những bất cập hiện tại mà còn để đón đầu xu thế phát triển tất yếu. Nghị định sẽ thống nhất nhận thức, chuẩn hóa cách làm, phân định rõ trách nhiệm giữa các cấp, ngành; tạo điều kiện khuyến khích phát triển công nghiệp phục vụ đô thị thông minh, đóng góp vào kinh tế số và kinh tế đô thị.
Nguồn lực triển khai đã được bảo đảm và mở rộng
Điểm đáng chú ý là Bộ Xây dựng khẳng định, nguồn lực cho việc triển khai Nghị định cơ bản đã được bảo đảm. Nghị quyết số 57-NQ/TW đã xác định người dân, doanh nghiệp là trung tâm và chủ thể, nhà khoa học là nhân tố then chốt, Nhà nước đóng vai trò dẫn dắt và tạo điều kiện thuận lợi nhất.
Theo Luật Ngân sách nhà nước, tỷ lệ chi cho khoa học, công nghệ được bảo đảm từ 2% trở lên trong tổng chi ngân sách hàng năm và hiện Chính phủ đang hướng tới mục tiêu 3%. Nguồn lực này sẽ tiếp tục được ưu tiên cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số các yếu tố cốt lõi của đô thị thông minh.
Song song đó, hệ thống luật thuế đã được rà soát, sửa đổi nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ, đào tạo nhân lực và đổi mới sáng tạo. Nghị quyết số 193/2025/QH15 cùng Nghị định số 88/2025/NĐ-CP đã tháo gỡ các vướng mắc về đấu thầu, mua sắm, lựa chọn nhà đầu tư cho các dự án công nghệ cao, mở đường cho nhiều dự án đô thị thông minh quy mô lớn.
Ngoài ngân sách nhà nước, các cơ chế xã hội hóa và hợp tác công tư (PPP) cũng được thúc đẩy. Nghị định dự kiến sẽ cụ thể hóa các hình thức thuê dịch vụ đô thị thông minh, khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cộng đồng và các đối tác quốc tế. Điều này giúp mở rộng đáng kể khả năng huy động vốn, giảm áp lực cho ngân sách công, đồng thời tận dụng công nghệ và kinh nghiệm quản lý hiện đại từ khu vực tư nhân.
Để bảo đảm việc thi hành Nghị định, Bộ Xây dựng đề xuất triển khai đồng bộ các biện pháp: tuyên truyền và phổ biến rộng rãi đến các cấp chính quyền, doanh nghiệp và người dân; bố trí kinh phí từ ngân sách trung ương, địa phương và các nguồn hợp pháp khác; tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện, bảo đảm hiệu quả và minh bạch.
Theo Bộ Xây dựng, khi Nghị định được ban hành, Việt Nam sẽ có một khung pháp lý toàn diện cho phát triển đô thị thông minh, từ quy hoạch, hạ tầng, dữ liệu, dịch vụ tiện ích, cho tới quản trị, điều hành. Điều này giúp khắc phục tình trạng triển khai rời rạc, thiếu kết nối; định hướng rõ ràng về tiêu chí, cấp độ trưởng thành; đồng thời tạo nền tảng cho hợp tác quốc tế và tham gia sâu hơn vào các mạng lưới đô thị thông minh khu vực và toàn cầu.
Quan trọng hơn, Nghị định sẽ tạo môi trường thuận lợi để các địa phương chủ động xây dựng đề án và kế hoạch phù hợp điều kiện thực tế, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế riêng, hướng tới mục tiêu chung là nâng cao chất lượng sống của người dân, tăng sức cạnh tranh của đô thị Việt Nam, và đóng góp tích cực vào phát triển bền vững quốc gia.
Dự thảo Nghị định về phát triển đô thị thông minh đặt mục tiêu thống nhất khung pháp lý và chuẩn hóa cách làm giữa các địa phương, khắc phục tình trạng thiếu kết nối, thiếu tiêu chuẩn và thiếu cơ chế đặc thù. Nguồn lực triển khai được bảo đảm từ ngân sách nhà nước và huy động xã hội hóa, với cơ chế khuyến khích hợp tác công tư, thuê dịch vụ đô thị thông minh. Nghị định hướng tới nâng cao chất lượng sống của người dân, thúc đẩy kinh tế số và bảo đảm phát triển đô thị bền vững.
Văn Hoàng