Tiền đề để Việt Nam phát triển một nền kinh tế biển mạnh và bền vững
+ Thưa Phó Cục trưởng, ông từng chia sẻ rằng chúng ta cần phải ưu tiên đầu tư cho bảo tồn biển để giữ gìn cho thế hệ mai sau… Nhiều năm tâm huyết với lĩnh vực này, ông đánh giá như thế nào về bảo tồn biển, bảo tồn đa dạng sinh học và những lợi thế phát triển kinh tế biển của nước ta, thưa ông?
- Ông Lê Trần Nguyên Hùng:Có thể tự hào rằng, Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế biển. Đúng như Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan đã từng nói: “Nếu nuôi biển chỉ nói về nuôi cá, nuôi tôm, nuôi mực… thì không phải. Nuôi biển là nuôi hệ sinh thái biển, nuôi giá trị biển, kể cả giá trị hữu hình và vô hình từ biển. Bằng trí tuệ, tri thức chúng ta phải làm giàu cho biển thì biển làm giàu cho chúng ta”.
Việt Nam nằm trong vùng có tính đa dạng sinh học khá cao, được xếp thứ 16 trong số các quốc gia có đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới, trong số đó có khoảng 6.000 loài động vật đáy, 2.038 loài cá, 225 loài tôm biển, 15 loài rắn biển, 12 loài thú biển, 5 loài rùa biển và 43 loài chim nước, 653 loài rong biển, 657 loài động vật phù du; 94 loài thực vật ngập mặn, 14 loài cỏ biển, khoảng hơn 400 loài san hô…Các loài này cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, có năng suất sinh học cao và quyết định toàn bộ năng suất sơ cấp của toàn vùng biển.
Các đặc trưng nêu trên tạo nên tính đa dạng về cảnh quan tự nhiên, sinh thái và nguồn lợi hải sản, có vai trò vô cùng quan trọng cho phát triển kinh tế biển như: cung cấp nguồn lợi thủy sản cho khai thác thủy sản, nguồn giống cho nuôi trồng thủy sản, cho y tế, thực phẩm chức năng, khoa học, giáo dục, sức khỏe đại dương, du lịch góp phần phát triển kinh tế biển ở địa phương. Đây là nguồn vốn tự nhiên mà thiên nhiên đã ban tặng cho chúng ta, là tiền đề để Việt Nam phát triển một nền kinh tế biển mạnh và bền vững.
Ông Lê Trần Nguyên Hùng - Phó Cục trưởng Cục Kiểm ngư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
+ Ngày 10/12/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1539/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án mở rộng, thành lập mới các khu bảo tồn biển (KBTB), phục hồi các hệ sinh thái biển đến năm 2030, để đảm bảo diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt 6% diện tích tự nhiên vùng biển Việt Nam. Có thể nói, với tầm nhìn chiến lược đã mở ra nhiều cơ hội phát triển cho lĩnh vực này trong kỷ nguyên mới, thưa ông?
- Ông Lê Trần Nguyên Hùng:Đúng vậy, chúng ta đã nhận thức rõ Việt Nam là quốc gia ven biển, có các vùng biển và thềm lục địa rộng lớn, chứa đựng nguồn lợi hải sản, hệ sinh thái biển và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng. Biển, đảo của nước ta không những là khu vực phát triển kinh tế đầy tiềm năng, là nơi án ngữ các trục giao thông huyết mạch trên biển, cùng với tài nguyên phong phú, mà còn là môi trường tác chiến quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Biển Việt Nam còn là địa bàn quan trọng để phát triển kinh tế đất nước. Hiện nay, có trên 31% dân số cả nước sinh sống ở 28 tỉnh, thành phố ven biển. Đa số các thành phố, thị xã đều nằm ở ven sông, cách biển không xa, nhất là các thành phố, thị xã ở miền Trung. Khu vực ven biển cũng là nơi tập trung các trung tâm công nghiệp lớn, có nhiều sân bay, cảng biển quan trọng, các căn cứ hải quân, kho tàng, các công trình kinh tế - quốc phòng khác. Các tỉnh, thành phố ven biển có nghề cá phát triển nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, các cảng cá, cơ sở sửa chữa, đóng tàu thuyền, cơ sở chế biến thủy sản, làm muối... thu hút hơn 13 triệu lao động, giải quyết công ăn việc làm, góp phần to lớn vào việc ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh - quốc phòng.
Tôi vẫn nhớ, Hội nghị lần thứ 8 BCH T.Ư Đảng Khóa VII (tháng 10/2018) đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, Nghị quyết nêu quan điểm “Phát triển bền vững kinh tế biển là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, là quyền và nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh nghiệp và người dân Việt Nam; Phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hòa giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển, phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước”; mục tiêu cụ thể là “Quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia”…
Phó Cục trưởng Cục Kiểm ngư Lê Trần Nguyên Hùng trò chuyện với phóng viên Báo Nhà báo & Công luận. Ảnh: Sơn Hải
Bước vào giai đoạn phát triển mới, để thực hiện các chủ trương và mục tiêu Nghị quyết 36-NQ/TW đã nêu, ngày 5/3/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP về việc ban hành kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW. Bộ NN&PTNT đã ban hành và triển khai thực hiện Kế hoạch hành động của Bộ; Tỉnh ủy, UBND các tỉnh thành phố ven biển đã xây dựng chương trình, kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và ban hành 4 nhiệm vụ vô cùng quan trọng đó là: Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định 389/QĐ-TTg ngày 9/5/2024); Chương trình điều tra, đánh giá tổng thể nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của các loại thủy sản (Quyết định 523/QĐ-TTg ngày 27/4/2022); Chương trình quốc gia về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2030 (Quyết định 76/QĐ-TTg ngày 9/1/2024) và Đề án mở rộng, thành lập mới các khu bảo tồn biển, khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, phục hồi các hệ sinh thái biển đến năm 2030 để đảm bảo diện tích các vùng biển, ven biển đạt 6% diện tích tự nhiên vùng biển Việt Nam (Quyết định 1539/QĐ-TTg ngày 10/12/2024). Đây là cơ sở quan trọng trong việc thực hiện công tác bảo tồn, bảo vệ, tái tạo phục hồi nguồn lợi thủy sản hướng đến ngành thủy sản xanh và bền vững trong thời gian tới.
Thiết lập, vận hành hiệu quả khu bảo tồn biển là nền tảng phát triển kinh tế biển xanh
+ Mặc dù hiện nay đã có nhiều chủ trương, định hướng và giải pháp nhưng công tác bảo tồn, bảo vệ, tái tạo, phục hồi và phát triển nguồn lợi thủy sản hướng đến ngành thủy sản xanh và bền vững trong thời gian tới vẫn còn nhiều thách thức. Thưa ông, đâu là những vấn đề mà ông còn nhiều trăn trở?
- Ông Lê Trần Nguyên Hùng:Tôi đánh giá rằng, thời gian qua, hệ thống các KBTB đang dần được hình thành trên phạm vi cả nước, đáp ứng ngày càng hiệu quả mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học và các hệ sinh thái biển quan trọng. Công tác thực thi pháp luật tại các KBTB ngày càng được quan tâm, đẩy mạnh, đạt hiệu quả tích cực, góp phần từng bước đẩy lùi các vi phạm tại các khu vực biển được bảo vệ, bảo tồn và phục hồi.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, vấn đề trên cũng còn rất nhiều khó khăn, thách thức như: Các hệ sinh thái biển đang đứng trước nhiều nguy cơ đe dọa và rủi ro ngày càng tăng từ các hoạt động phát triển kinh tế và các yếu tố khách quan: phát triển du lịch, đánh bắt thủy sản, nuôi biển; biến đổi khí hậu và axit hóa đại dương; ô nhiễm rác thải nhựa và rác thải đại dương…
Cùng với đó, tình trạng vi phạm pháp luật trong và xung quanh các bảo tồn biển ngày càng tinh vi như: sử dụng xung điện, chất nổ, ngư cụ hủy diệt, ngư cụ cấm để đánh bắt cá nhưng chưa được giải quyết triệt để; tổ chức bộ máy quản lý khu bảo tồn biển chưa thống nhất giữa các địa phương. Nguồn nhân lực và kinh phí đầu tư cho các KBTB còn rất hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu và giá trị mà nó mang lại đã và đang làm hiệu quả quản lý thấp, suy giảm nguồn lợi thủy sản, hệ sinh thái biển, và sinh kế của người dân trong và xung quanh các KBTB, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của địa phương và phát triển bền vững kinh tế biển; cơ chế, chính sách, pháp luật chưa bắt kịp, đón đầu những yêu cầu trong xu hướng mới.
Những rạn san hô tuyệt đẹp trong lòng biển. Ảnh: Đào Đặng Công Trung
+ Trong đề án, đến năm 2030, Việt Nam sẽ thành lập và quản lý hiệu quả 27 KBTB, gồm 11 KBTB cấp quốc gia và 16 KBTB cấp tỉnh. Hiện nay, mới có 11 KBTB được thành lập, tức là dự kiến còn 16 KBTB sẽ được thành lập mới. Thưa ông, trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình, tinh giảm biên chế, bộ máy việc thành lập KBTB còn nhiều thách thức và khó khăn hiện tại, liệu mục tiêu đặt ra này có khả thi không?
- Ông Lê Trần Nguyên Hùng: Tôi tin rằng, mục tiêu này là khả thi với điều kiện phải có sự nỗ lực chung tay của cả hệ thống chính trị, tổ chức, doanh nghiệp, người dân và có sự kết hợp và triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp.
Giải pháp đầu tiên, tôi cho rằng phải có sự đồng sức, đồng lòng của tất cả các cấp từ Trung ương đến địa phương, đặt biệt là chính quyền địa phương để thực hiện thật hiệu quả các quy hoạch, chương trình, đề án đã đề ra, trong đó quan tâm đặc biệt trong việc đầu tư điều chỉnh, mở rộng các KBTB đã thành lập và đầu tư thành lập mới các KBTB theo Quy hoạch Bảo vệ và Khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050 và Đề án thành lập mới các KBTB, phục hồi các hệ sinh thái biển đến năm 2030, để đảm bảo diện tích các KBTB, ven biển đạt 6% diện tích các vùng biển Việt Nam…
Thứ hai là cần nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân và toàn xã hội về lợi ích và trách nhiệm đối với công tác bảo tồn, bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái biển để mỗi người dân đều hiểu và trân quý những giá trị của tài nguyên biển do thiên nhiên ban tặng. Vì chỉ khi có sự trân quý từ trái tim thì mỗi người dân mới coi việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản, hệ sinh thái biển là bảo vệ chính mình, gia đình mình, địa phương mình và cho thế hệ mai sau và cuộc sống tươi đẹp xung quanh.
Thứ ba là thể chế, phải có sự đột phá, linh hoạt, đổi mới hơn nữa để khuyến khích, xã hội hóa, huy động được sức mạnh của nhiều tổ chức, cá nhân trong xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp tham gia đối với công tác bảo tồn biển, thả rạn nhân tạo cũng như phục hồi san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn như là cách các doanh nghiệp đóng góp có trách nhiệm cho xã hội, là một trong ba chỉ số phát triển bền vững của doanh nghiệp (ESG: Môi trường, Xã hội và Quản trị).
Đồng thời, phải ưu tiên bố trí nguồn lực (con người, kinh phí) để thành lập và quản lý hiệu quả các khu bảo tồn biển theo quy hoạch và đề án đã được phê duyệt. Cần tập trung rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý KBTB; xây dựng cơ chế, chính sách đầu tư KBTB, thí điểm giao tổ chức ngoài công lập quản lý khu bảo tồn biển; chuyển đổi nghề, tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư sống trong và xung quanh KBTB…
Khu bảo tồn biển Phú Quý. Ảnh: Đào Đặng Công Trung
Thứ tư, kiện toàn, nâng cao năng lực lực lượng kiểm ngư, tăng cường công tác thực thi pháp luật; xử lý nghiêm các vụ vi phạm trong và xung quanh các KBTB. Tổ chức phối hợp, tham gia của các lực lượng chức năng (kiểm ngư, kiểm lâm, bộ đội biên phòng...) thực hiện tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn và xử lý vi phạm tại các khu vực biển được bảo vệ, bảo tồn và phục hồi. Kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý Ban quản lý KBTB/Vườn Quốc gia có biển theo hướng thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương; bố trí lực lượng kiểm ngư tại các KBTB
Thứ năm, đó là tăng cường hợp tác quốc tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực hỗ trợ quốc tế đầu tư cho các KBTB; thực hiện nghiêm, đầy đủ và có trách nhiệm các điều ước, cam kết quốc tế và khu vực về bảo tồn, bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái biển, bảo tồn đa dạng sinh học biển mà Việt Nam đã tham gia…
Có thể nói, việc thiết lập và vận hành hiệu quả hệ thống các KBTB là một mục tiêu quan trọng, khả thi trong thời gian tới, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết 36-NQ/TW. Nhiệm vụ này không chỉ nhằm bảo toàn tính bền vững của các vùng biển, đảo mà còn là cơ sở pháp lý quan trọng để phục vụ công cuộc phát triển bền vững kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền biển, đảo và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, thể hiện sự tích cực, quyết tâm và cam kết đối với việc tôn trọng và thực thi các quy định của UNCLOS năm 1982; thể hiện Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, quyết tâm phấn đấu vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Tôi tin rằng, cùng với tư duy đổi mới, đột phá, phù hợp xu thế chung toàn cầu trong tình hình mới, trong đó xây dựng kinh tế biển xanh là nền tảng thì 5 nhóm giải pháp: “Đồng lòng - Nhận thức - Thể chế - Thực thi - Hợp tác quốc tế” chắc chắn sẽ tạo nên sức bật, sự đột phá trong phát triển kinh tế biển xanh tạo động lực phát triển bền vững kinh tế biển trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước.
+Vâng, xin trân trọng cảm ơn ông!
Hà Vân (Thực hiện)