Đối tượng tham gia chương trình bao gồm các tổ chức nghiên cứu khoa học và tổ chức nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ công lập được tổ chức dưới hình thức viện hàn lâm, viện, trung tâm nghiên cứu; cơ sở giáo dục đại học công lập được thành lập theo quy định của pháp luật về giáo dục đại học và được xác định là đại học quốc gia, hoặc các trường đại học trọng điểm trong lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ.
Chương trình tập trung nâng cao năng lực cho các tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ công lập, xây dựng nền tảng khoa học và công nghệ vững chắc, tạo ra một số tổ chức nghiên cứu và phát triển hạt nhân làm động lực thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ. Qua đó, tạo đột phá trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững, tăng trưởng kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh quốc gia.
Đến năm 2030, xây dựng đội ngũ nghiên cứu với ít nhất 30 nghiên cứu viên
Chương trình đặt mục tiêu đến năm 2030, phát triển được 5 tổ chức nghiên cứu cơ bản trong các lĩnh vực toán học, vật lý, sinh học, khoa học vật liệu và khoa học trái đất. Các tổ chức này phấn đấu nằm trong nhóm 30% tổ chức được xếp hạng cao nhất theo đánh giá của những tổ chức quốc tế uy tín như SCImago Institutions Rankings (SIR) hoặc các hệ thống xếp hạng tương đương.
Chương trình đặt mục tiêu xây dựng từ 7 đến 10 tổ chức nghiên cứu khoa học, kỹ thuật và công nghệ đạt vị thế nằm trong nhóm 30% hàng đầu theo các bảng xếp hạng uy tín quốc tế như SIR hoặc tương đương. Những tổ chức này sẽ đóng vai trò dẫn dắt trong nghiên cứu, phục vụ phát triển các công nghệ nền tảng và công nghệ chiến lược của quốc gia.
Chương trình cũng hướng tới việc phát triển 4 tổ chức nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn xuất sắc, giữ vai trò chủ chốt và nòng cốt trong lĩnh vực này. Các tổ chức này sẽ có nhiệm vụ cung cấp cơ sở khoa học phục vụ Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững. Trong số đó, phấn đấu có ít nhất một tổ chức đạt trình độ ngang tầm khu vực và thế giới.
Đồng thời, chương trình đặt mục tiêu kể từ năm thứ hai triển khai, mỗi tổ chức tham gia phải thu hút tối thiểu 70 lượt chuyên gia và nhà khoa học uy tín trong khu vực và quốc tế đến hợp tác nghiên cứu, đào tạo, tham dự hội thảo và trao đổi học thuật. Các tổ chức cần duy trì thường xuyên một diễn đàn khoa học hoặc hội thảo thường niên có uy tín ở tầm khu vực hoặc quốc tế.
Chương trình đặt mục tiêu đến năm 2030, xây dựng và duy trì đội ngũ nghiên cứu với ít nhất 30 nghiên cứu viên. Ảnh minh họa: Hà Anh/Mekong ASEAN.
Đến năm 2030, xây dựng và duy trì đội ngũ nghiên cứu với ít nhất 30 nghiên cứu viên (không bao gồm viên chức nghiên cứu hưởng lương từ ngân sách Nhà nước) gồm người lao động theo hợp đồng làm công tác nghiên cứu, cộng tác viên khoa học và công nghệ (trực tiếp hoặc trực tuyến), nghiên cứu sinh, học viên cao học trong và ngoài nước. Trong số đó, tỷ lệ chuyên gia là người nước ngoài hoặc người Việt Nam ở nước ngoài phải đạt tối thiểu 15%.
Đối với nghiên cứu cơ bản trong các lĩnh vực toán học, vật lý, sinh học, khoa học vật liệu và khoa học trái đất, mỗi tổ chức được triển khai nâng cao năng lực sẽ phải đạt được những kết quả cụ thể. Hằng năm, số lượng bài báo khoa học công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín thuộc danh mục Web of Science, Scopus hoặc Scimago nhóm Q1 và Q2 của mỗi tổ chức phải tăng trung bình từ 15% đến 20%. Đến năm 2030, hiệu suất công bố khoa học được đặt mục tiêu đạt tối thiểu 1,5 bài báo quốc tế uy tín cho mỗi tiến sĩ trong một năm.
Đối với lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ, mỗi viện nghiên cứu hoặc tổ chức tương đương được triển khai nâng cao năng lực sẽ phải đạt được kết quả như sau:
Hằng năm, số lượng bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín thuộc danh mục Web of Science, Scopus hoặc Scimago nhóm Q1 và Q2 của mỗi tổ chức phải tăng trung bình khoảng 12%. Đến năm 2030, hiệu suất công bố được đặt mục tiêu đạt tối thiểu 1,1 bài báo quốc tế uy tín trên mỗi tiến sĩ trong một năm.
Số lượng văn bằng bảo hộ sáng chế, bao gồm bằng độc quyền sáng chế và bằng độc quyền giải pháp hữu ích, phải tăng trung bình 15% mỗi năm, đồng thời gia tăng dần số lượng sáng chế được bảo hộ ở nước ngoài. Tới năm 2030, hiệu suất tạo ra các văn bằng bảo hộ về sáng chế, giải pháp hữu ích, giống cây trồng mới hoặc thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn phải đạt bình quân tối thiểu 0,2 văn bằng bảo hộ cho mỗi tiến sĩ trong một năm.
Chương trình cũng đặt mục tiêu 100% tổ chức được hỗ trợ nâng cao năng lực phải làm chủ quy trình thiết kế và tích hợp để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh đối với các công nghệ nền tảng và công nghệ chiến lược thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình. Hằng năm có ít nhất 2 kết quả hoặc sản phẩm khoa học và công nghệ được chuyển giao hay ứng dụng vào thực tiễn.
Đối với lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, mỗi tổ chức cung cấp ít nhất 10 báo cáo tư vấn chính sách phục vụ công tác xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật hoặc giải pháp phát triển xã hội cho trung ương, địa phương hằng năm.
Trong đó, có tối thiểu một báo cáo được các cơ quan của Đảng và Nhà nước tham khảo, sử dụng làm luận cứ trong ban hành văn kiện, văn bản quy phạm pháp luật, chính sách hoặc một mô hình được triển khai thử nghiệm trong thực tiễn.
Hằng năm, số lượng công trình công bố quốc tế uy tín của mỗi tổ chức tăng trung bình 12% (bài báo khoa học, sách, chương sách xuất bản ở các tạp chí, nhà xuất bản quốc tế uy tín trong danh mục Web of Science/Scopus/Scimago). Tới năm 2030, hiệu suất công bố đạt tối thiểu một bài báo quốc tế uy tín/tiến sĩ/năm.
6 nhiệm vụ, giải pháp
Để thực hiện các mục tiêu đã đề ra, chương trình xác định 6 nhóm nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm. Một là, xây dựng một số tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trở thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, có trình độ ngang tầm khu vực và thế giới.
Đồng thời, phát triển đột phá hạ tầng khoa học và công nghệ, cũng như thúc đẩy nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực ưu tiên.
Triển khai các hoạt động đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ. Cuối cùng, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, đẩy mạnh công tác truyền thông và lan tỏa kết quả thực hiện của chương trình.
Hà Anh
Theo Cổng TTĐT Chính phủ