Nhờ thành công của ca phẫu thuật chuyển vạt màng xương có cuống mạch vi phẫu, sau 6 năm liên tục mang nẹp, bó bột, không thể tự đi lại và phải phụ thuộc hoàn toàn vào bố mẹ trong mọi sinh hoạt, bé gái N.L (7 tuổi, Ninh Bình) mắc khớp giả xương chày bẩm sinh đã có thể tự bước đi bằng chính đôi chân của mình.
Bé N.L được phát hiện mắc khớp giả xương chày bẩm sinh ngay từ khi mới biết đi. Đây là bệnh lý hiếm gặp, có thể liên quan đến yếu tố di truyền, đặc biệt ở những gia đình có người mắc bệnh u xơ thần kinh tuýp 1.
Bệnh nhi đang được điều trị tại cơ sở y tế.
Ở trẻ mắc bệnh, xương chày rối loạn phát triển, dễ gãy và rất khó liền; tình trạng cong ngày càng tăng, dẫn tới ngắn chi, biến dạng và giảm mạnh khả năng vận động.
Tại Bệnh viện Nhi Trung ương, các bác sỹ khoa Chỉnh hình và khoa Phục hồi chức năng đã thăm khám, tư vấn và điều trị bảo tồn bằng nẹp chỉnh hình nhằm hạn chế tối đa biến dạng xương.
Trước khi đến với kỹ thuật mới, bệnh nhi đã trải qua 3 lần phẫu thuật khác nhau như cắt ổ khớp giả, ghép xương tự thân, ghép xương đồng loại kết hợp cố định xương. Dù có cải thiện, nhưng xương vẫn không thể liền được như mong đợi.
TS.Hoàng Hải Đức, Trưởng khoa Chỉnh hình, Bệnh viện Nhi Trung ương cho biết, khớp giả xương chày bẩm sinh là một trong những bệnh lý khó điều trị nhất của chấn thương chỉnh hình nhi khoa. Trẻ càng lớn, xương càng yếu và cong nhiều hơn.
“Nếu không điều trị hiệu quả, nguy cơ ngắn chi nặng, biến dạng hoặc tàn tật là rất cao. Sau khi đánh giá toàn bộ quá trình điều trị trước đó, chúng tôi quyết định tiếp cận phương pháp mới là ghép vạt màng xương có cuống mạch nuôi để nối liền xương cho trẻ”, bác sỹ Đức chia sẻ.
Kỹ thuật này sử dụng vạt màng xương chày có mạch máu nuôi từ chân lành để chuyển sang chân tổn thương. Trước khi ghép, bác sỹ cắt bỏ ổ khớp giả cùng toàn bộ màng xương bệnh lý, sau đó cố định khớp giả xương chày bằng nẹp vít. Tiếp đến là ghép vạt màng xương có cuống mạch nuôi vào vị trí xương bệnh bằng kỹ thuật vi phẫu, nối các mạch máu nhỏ để bảo đảm phần ghép được nuôi sống.
Ca phẫu thuật kéo dài 4,5 giờ liên tục, đòi hỏi độ chính xác tuyệt đối và sự phối hợp ăn ý giữa nhiều chuyên khoa. Các bác sỹ phải tính toán kỹ lưỡng từng đường rạch, hướng bóc tách, cách bảo tồn mạch nuôi của vạt và đồng thời phải loại bỏ triệt để phần xương bệnh lý.
Trước đó, khoa Chỉnh hình Bệnh viện Nhi Trung ương đã có nhiều kinh nghiệm trong các kỹ thuật vi phẫu phức tạp như ghép nối thần kinh điều trị tổn thương đám rối thần kinh, ghép vạt bạch huyết điều trị phù bạch huyết chi. Đây là nền tảng quan trọng giúp ê-kíp tự tin triển khai thành công ca ghép lần này.
Sau 6 tuần, phim X-quang cho thấy can xương hình thành tốt, xương mới tái tạo mạnh mẽ và ổ khớp giả được bù đắp vững chắc. So với những phương pháp phẫu thuật trước đó, tốc độ và chất lượng liền xương vượt trội rõ rệt.
Đến tuần thứ 9, bệnh nhi được tháo bột và bắt đầu tập đi lại. Hiện tại, bé N.L có thể đi lại độc lập, tự đến trường và tham gia các hoạt động cùng bạn bè như bao trẻ khác.
Mẹ bệnh nhi xúc động chia sẻ rằng suốt 6 năm qua, con đi đâu bố mẹ cũng phải cõng; mỗi ngày đưa đón con đi học 4 lần; mọi sinh hoạt cá nhân của con đều vô cùng khó khăn. “Nhìn con có thể tự bước đi, chơi đùa với bạn bè, tôi vẫn thấy như đang mơ”, chị nghẹn ngào.
Thành công của ca phẫu thuật đánh dấu bước tiến quan trọng của đội ngũ y, bác sỹ Bệnh viện Nhi Trung ương trong làm chủ các kỹ thuật vi phẫu tiên tiến trên thế giới.
Theo các chuyên gia, hành trình hồi phục của bé N.L là nguồn động viên to lớn cho những trẻ mắc khớp giả xương chày bẩm sinh. Từ kết quả này, nhiều gia đình sẽ được tiếp thêm niềm tin để kiên trì điều trị, giúp các em có cơ hội sở hữu đôi chân khỏe mạnh, được đi lại, sinh hoạt và học tập bình thường như bạn bè đồng trang lứa.
D.Ngân