Phụ nữ sinh con thứ 2 nghỉ thai sản 7 tháng từ tháng 7-2026

Phụ nữ sinh con thứ 2 nghỉ thai sản 7 tháng từ tháng 7-2026
3 giờ trướcBài gốc
Sáng 10-12, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Quốc hội chính thức thông qua Luật Dân số với nhiều quy định mới liên quan đến truyền thông dân số, duy trì mức sinh thay thế, giảm mất cân bằng giới tính khi sinh, thích ứng với già hóa dân số và nâng cao chất lượng dân số.
Luật có hiệu lực từ ngày 1-7-2026, riêng một số chính sách hỗ trợ sinh con bắt đầu áp dụng từ ngày 1-1-2027.
Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan trình bày tóm tắt báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo luật. Ảnh: QH
26-12 là ngày Dân số Việt Nam
Luật Dân số quy định ngày 26-12 hằng năm là ngày Dân số Việt Nam. Tháng 12 hằng năm là tháng hành động quốc gia về dân số, nhằm đẩy mạnh truyền thông, huy động toàn xã hội tham gia giải quyết các vấn đề dân số theo từng giai đoạn.
Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức là hành vi bị nghiêm cấm, kể cả việc thông báo, tiết lộ giới tính thai nhi (trừ trường hợp do Bộ trưởng Bộ Y tế quy định để phục vụ chẩn đoán và điều trị các bệnh liên quan đến giới tính). Người có hành vi tiết lộ giới tính thai nhi nhằm phá thai bị đình chỉ hành nghề theo quy định pháp luật.
Hành vi cưỡng bức sinh con hoặc không sinh con, phân biệt đối xử trong tiếp cận dịch vụ dân số và nhân bản vô tính người cũng bị cấm theo luật.
Mất cân bằng giới tính khi sinh là thách thức với phát triển bền vững
Năm 2006, tỉ số giới tính khi sinh của Việt Nam ở mức 109,8 bé trai/100 bé gái sinh ra sống - vượt ngưỡng cân bằng tự nhiên (103-107). Năm 2015 là 112,8 và năm 2024 là 111,4.
Như vậy, tỉ số giới tính khi sinh luôn ở mức cao, dự kiến khó đạt được mục tiêu đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức 111 bé trai/100 bé gái vào năm 2025.
Dự báo, nếu tỉ số giới tính khi sinh vẫn giữ nguyên như hiện nay, Việt Nam sẽ có 1,5 triệu nam giới 15-49 tuổi dư thừa vào năm 2039 và tăng lên 2,5 triệu vào năm 2059.
Theo Bộ Y tế, điều này sẽ dẫn tới nguy cơ phá vỡ cấu trúc gia đình, một bộ phận nam giới sẽ phải kết hôn muộn, không có khả năng kết hôn, gia tăng tình trạng buôn bán phụ nữ, trẻ em gái, mại dâm, bạo hành giới, tội phạm xuyên quốc gia... gây mất ổn định trật tự an ninh, an toàn xã hội.
Luật Dân số đặt mục tiêu nâng cao nhận thức, tạo đồng thuận xã hội và thay đổi hành vi liên quan đến dân số. Luật ưu tiên truyền thông về kết hôn và sinh con để duy trì mức sinh thay thế; giảm tảo hôn, hôn nhân cận huyết; giảm mất cân bằng giới tính khi sinh; chuẩn bị cho tuổi già; khám tiền hôn nhân; sàng lọc trước sinh và sơ sinh; xóa định kiến giới và nâng cao vai trò phụ nữ.
Các nội dung dân số được đưa vào chương trình giáo dục phù hợp từng cấp học.
Phụ nữ sinh con thứ 2 nghỉ thai sản 7 tháng
Luật quy định cá nhân và cặp vợ chồng có quyền tự quyết về số con, thời điểm và khoảng cách sinh con trên cơ sở sức khỏe, điều kiện kinh tế và trách nhiệm nuôi dạy con.
Để duy trì mức sinh thay thế, luật quy định nhiều chính sách đáng chú ý. Cụ thể, lao động nữ sinh con thứ 2 được nghỉ thai sản 7 tháng, thay vì 6 tháng như hiện hành; lao động nam có vợ sinh con được nghỉ 10 ngày làm việc (tăng so với đề xuất 5 ngày tại dự thảo trước đó).
Phụ nữ dân tộc thiểu số rất ít người, phụ nữ ở tỉnh, thành có mức sinh dưới mức sinh thay thế và phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi sẽ được hỗ trợ tài chính. Người có từ hai con đẻ trở lên được ưu tiên khi mua, thuê mua hoặc thuê nhà ở xã hội.
Chính phủ quy định mức hưởng và thủ tục, trong khi địa phương có thể tăng mức hỗ trợ theo khả năng ngân sách.
Phụ nữ sinh con thứ 2 được nghỉ thai sản 7 tháng, thay vì 6 tháng như hiện hành. (Ảnh minh họa: TT)
Luật cũng quy định cơ quan thống kê công bố tình trạng mức sinh hằng năm để làm căn cứ xây dựng chính sách. Ngoài ra, luật cho phép áp dụng các biện pháp điều chỉnh quy mô và cơ cấu dân số như giảm tử vong và những biện pháp khác phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
Chính sách thích ứng với già hóa dân số
Trong chăm sóc người cao tuổi, luật xác định bốn hình thức chăm sóc và yêu cầu phát triển đa dạng các mô hình, bao gồm: tự chăm sóc, chăm sóc tại nhà, chăm sóc tại cộng đồng, và chăm sóc tại cơ sở chăm sóc người cao tuổi, cơ sở khám chữa bệnh.
Luật cũng khuyến khích phát triển đội ngũ nhân lực lão khoa và ưu tiên hỗ trợ đào tạo cho người làm việc tại vùng khó khăn.
Cùng với đó, Luật Dân số khuyến khích nam, nữ thăm khám và tư vấn sức khỏe trước khi kết hôn, đồng thời cho phép địa phương hỗ trợ chi phí tùy điều kiện kinh tế - xã hội.
Đối với sàng lọc trước sinh và sơ sinh, luật nêu rõ ngân sách nhà nước và BHYT sẽ hỗ trợ một số bệnh bẩm sinh theo danh mục của Bộ Y tế. Chính phủ quy định lộ trình và đối tượng hưởng hỗ trợ, trong khi địa phương có thể mở rộng quy mô hỗ trợ.
Người dân được bảo đảm quyền bình đẳng khi tiếp cận dịch vụ sức khỏe sinh sản, bao gồm dự phòng và điều trị vô sinh. Địa phương có thể hỗ trợ phương tiện tránh thai và dịch vụ kế hoạch hóa gia đình cho hộ nghèo, cận nghèo, người thuộc diện bảo trợ xã hội và vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo và khu vực biên giới đất liền.
Nguồn lực cho công tác dân số gồm ngân sách nhà nước, quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ BHYT, chi trả dịch vụ của người dân và viện trợ cùng các nguồn hợp pháp khác. Người trực tiếp thực hiện công tác dân số được đào tạo, bồi dưỡng và hưởng chính sách ưu đãi, nhất là tại vùng dân tộc thiểu số, miền núi và khu vực đặc biệt khó khăn.
Pháp lệnh dân số năm 2003 và 2025 hết hiệu lực kể từ ngày Luật Dân số có hiệu lực thi hành.
Theo báo cáo của Bộ Y tế, mức sinh trên toàn quốc đang có xu hướng giảm thấp dưới mức sinh thay thế, từ 2,11 con/phụ nữ (2021) xuống 2,01 con/phụ nữ (2022), 1,96 con/phụ nữ (2023) và 1,91 con/phụ nữ (2024) - mức thấp nhất trong lịch sử và được dự báo là sẽ tiếp tục xuống thấp trong các năm tiếp theo.
Trong 2 thập kỷ qua, mức sinh khu vực thành thị đã xuống dưới mức sinh thay thế, dao động quanh 1,7-1,8 con/phụ nữ.
Mức sinh khu vực nông thôn luôn cao hơn mức sinh thay thế, ở mức 2,2-2,3 con/phụ nữ, nhưng đến năm 2024 đã giảm dưới mức sinh thay thế là 2,08 con/phụ nữ.
2/6 vùng kinh tế - xã hội có mức sinh thấp dưới mức sinh thay thế là Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, 2/6 vùng mức sinh có mức sinh cao trên mức sinh thay thế là Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên.
Chênh lệch giữa mức sinh vùng cao nhất (Trung du miền núi phía Bắc) và vùng thấp nhất (Đông Nam bộ) là 0,86 con/phụ nữ.
Có 24 tỉnh, thành có mức sinh thấp dưới 2 con/phụ nữ; 23 tỉnh, thành có mức sinh cao trên 2,2 con/phụ nữ và chỉ có 16 tỉnh, thành có mức sinh xung quanh mức sinh thay thế ở mức 2-2,2 con/phụ nữ.
THANH TÚ
Nguồn PLO : https://plo.vn/phu-nu-sinh-con-thu-2-nghi-thai-san-7-thang-tu-thang-7-2026-post885804.html