Việt Nam có khoảng 11,838 triệu hecta đất bị thoái hóa, trong đó đất sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn: 114.000 ha thoái hóa nặng, 1,655 triệu ha trung bình và 3,308 triệu ha nhẹ. Trước thực trạng đáng báo động đó, những nỗ lực phục hồi sức khỏe đất, tái tạo hệ sinh vật và cân bằng dinh dưỡng đang được đẩy mạnh.
Diễn đàn “Sức khỏe đất trồng lúa - Nền tảng phát triển xanh và bền vững” diễn ra sáng 29/10. (Ảnh: Báo Nông nghiệp Môi trường)
Tại Diễn đàn “Sức khỏe đất trồng lúa - Nền tảng phát triển xanh và bền vững” do Viện Thổ nhưỡng Nông hóa phối hợp với Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam và Báo Nông nghiệp Môi trường tổ chức sáng nay (29/10), thu hút hàng trăm đại biểu từ cơ quan quản lý, chuyên gia, doanh nghiệp và nông dân tham dự. Tại sự kiện, tọa đàm “Đất khỏe - Gạo Việt xanh”, với phiên thảo luận chuyên sâu về liên kết phục hồi đất trồng lúa hướng tới nông nghiệp bền vững đặc biệt được quan tâm.
Theo khảo sát của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hàm lượng hữu cơ trong đất canh tác tại nhiều vùng miền núi phía Bắc đã giảm xuống dưới 1%, trong khi độ pH đất ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – vựa lúa lớn nhất nước – chỉ còn dao động từ 4,5-5, so với mức 6,1 hồi năm 1975. Hệ sinh vật đất cũng bị xáo trộn nghiêm trọng do lạm dụng phân bón vô cơ (chiếm gần 90% tổng 10,3 triệu tấn phân bón sử dụng hàng năm giai đoạn 2017-2020) và thuốc bảo vệ thực vật, dẫn đến đất chai cứng, mất độ tơi xốp và giảm khả năng giữ nước.
Phát biểu tại diễn đàn, bà Lương Thị Kiểm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng cảnh báo không chỉ riêng địa phương này mà nhiều tỉnh thành khác đang đối mặt với nguy cơ “đất yếu” sau hàng thập kỷ thâm canh và canh tác liên tục ba vụ lúa/năm.
Bà Lương Thị Kiểm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng chia sẻ tại chương trình. (Ảnh: Báo Nông nghiệp Môi trường)
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng chia sẻ câu chuyện thực tiễn từ Hải Dương cũ, nơi phong trào trồng dưa hấu, dưa lê từng mang lại thu nhập cao nhưng đột ngột sụp đổ do vườn cây vàng lá, chết hàng loạt. Người dân ban đầu tăng liều phân bón và thuốc trừ sâu, song chỉ đến khi xét nghiệm mới phát hiện đất đã “ốm yếu”: hữu cơ cạn kiệt, pH giảm sâu và hệ vi sinh vật gần như bị xóa sổ.
“Đến lúc ấy, chúng tôi hiểu rằng không thể cứu cây khi đất đã yếu. Muốn cây khỏe phải bắt đầu từ việc hồi sinh sức khỏe đất, như chăm sóc người bệnh”, bà Kiểm bộc bạch. Tại Hải Phòng, với thu nhập cao từ rau vụ đông trên diện tích lớn, nhận thức về sức khỏe đất đang trở thành nền tảng cho nông nghiệp xanh, hiệu quả và lâu dài.
Ông Vũ Năng Dũng, Chủ tịch Hội Khoa học Đất Việt Nam. (Ảnh: Báo Nông nghiệp Môi trường)
Đồng quan điểm, ông Vũ Năng Dũng, Chủ tịch Hội Khoa học Đất Việt Nam, nhấn mạnh câu chuyện sức khỏe đất phải bắt đầu từ người dân – những người trực tiếp cày xới và nuôi dưỡng ruộng đồng. “Lực lượng cần hiểu rõ nhất là nông dân, nhà quản lý và doanh nghiệp. Họ phải biết đất của mình khỏe hay yếu, đặc biệt với cây chủ lực như lúa, chiếm 7 triệu ha canh tác cả nước năm 2025”.
“Chúng ta tự hào vì một số nước trên thế giới bày tỏ ngưỡng mộ ngành sản xuất lúa gạo của Việt Nam. Từ năm 1978 đến nay, diện tích canh tác lúa có giảm song năng suất lúa không ngừng tăng lên từ 17,93 tạ/vụ lên 61,1 tạ/vụ (năm 2023), sản lượng thóc đạt 43,5 triệu tấn. Đây là thành tích vô cùng ấn tượng,” ông Dũng nhấn mạnh.
Theo ông Dũng, đạt được thành tích trên là nhờ sự đổi mới về chính sách, người nông dân Việt Nam cần cù, sáng tạo; đầu tư cho thủy lợi, xây dựng, cơ sở hạ tầng nông thôn ngày càng được nâng lên. Ngoài ra, thành công của ngành sản xuất lúa gạo còn có sự đóng góp lớn của các nhà khoa học, các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và hỗ trợ từ các ngành khác.
Tuy vậy, ông Dũng cũng thẳng thắn nêu thực tế, sau một số năm thâm canh cao, một bộ phận đất lúa đang bị suy thoái cả về lý tính, hóa tính và vi sinh vật trong đất, phần nào ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng của lúa gạo.
Theo đó, thâm canh quá mức đã khiến dinh dưỡng đất mất cân bằng, cấu trúc suy yếu và hệ sinh thái nghèo nàn. So với ruộng ngày xưa, đất hôm nay “mệt mỏi” hơn, ít mùn, ít sinh khí. Để phục hồi, cần tầm nhìn dài hạn: trả lại chất hữu cơ (hiện chỉ 3 triệu tấn phân hữu cơ sử dụng năm 2023, so với tổng 7 triệu tấn phân bón), cân bằng pH và nuôi dưỡng vi sinh vật. Ông đặc biệt lưu ý vùng trung du và miền núi phía Bắc – nơi còn giữ nhiều cánh đồng lúa lớn – cần chương trình chuyên biệt để bảo vệ, tránh tổn thất kinh tế và di sản nông nghiệp.
Bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường). (Ảnh: Báo Nông nghiệp Môi trường)
Bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), khẳng định sức khỏe đất là yếu tố cốt lõi quyết định sự phát triển bền vững của ngành trồng trọt. “Đã đến lúc cần chuyển đổi mạnh mẽ nhận thức, truyền thông để xã hội hiểu đất là tài nguyên quý giá nhưng không vô tận”, bà lưu ý.
Thực tế, không chỉ nông dân mà nhiều cán bộ địa phương vẫn chưa nhận thức đúng, dẫn đến lạm dụng phân vô cơ khiến đất nghèo hữu cơ và mất sức sống. Nguyên nhân một phần từ truyền thông nặng lý thuyết, thiếu gần gũi. Thời gian tới, Cục sẽ xây dựng bộ tài liệu chuyên biệt cho từng nhóm đối tượng – từ nông dân đến doanh nghiệp – giúp họ quan sát và chăm sóc đất đúng cách. “Chỉ khi có bức tranh toàn cảnh về hiện trạng đất, chúng ta mới hành động hiệu quả để cải thiện”, bà Hương nhấn mạnh.
GS.TS Nguyễn Văn Bộ, nguyên Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, đại diện Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam, nhấn mạnh mối quan hệ đất-cây-phân bón chỉ bền vững khi gắn với yếu tố hữu cơ. “Muốn hạt gạo xanh thì mọi đầu vào phải xanh, từ vật tư đến canh tác, và người tiêu dùng xanh – những người chọn sản phẩm vì trách nhiệm môi trường”. Ông đề xuất cụ thể hóa chính sách nông nghiệp xanh, thực hiện “khám sức khỏe đất” định kỳ và hướng tới kinh tế tuần hoàn, nơi đất được tái tạo lâu dài. Điều này phù hợp với Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”, đã đạt 312.000 ha đăng ký năm 2025, giúp giảm phát thải metan từ rơm rạ (gần 45 triệu tấn/năm) và tăng năng suất trung bình lên 6,2 tấn/ha.
Ông Lê Quốc Doanh, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam. (Ảnh: Báo Nông nghiệp Môi trường)
Ở góc nhìn tổng thể, ông Lê Quốc Doanh, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam, đánh giá kết quả thống kê từ các viện nghiên cứu là tín hiệu đáng mừng: sức khỏe đất trồng lúa Việt Nam nhìn chung vẫn tốt, thể hiện qua năng suất ổn định 43,7 triệu tấn lúa năm 2025 và vị thế xuất khẩu vững chắc. Tuy nhiên, ông cảnh báo không được chủ quan, vì đất là nền tảng sức khỏe cây trồng, đặc biệt lúa – cây chủ lực. “Hai yếu tố quyết định là quản lý dinh dưỡng và quy trình canh tác gắn với thủy lợi. Việt Nam đã có nhiều đề án nâng cao bền vững, hình thành quy trình chuẩn để cải thiện đất, đảm bảo hạt gạo không chỉ ngon mà còn xanh”.
Trong thời gian tới, ông Vũ Năng Dũng, Chủ tịch Hội Khoa học Đất Việt Nam nhấn mạnh ngành nông nghiệp, trồng trọt cần xây dựng quy trình phân bón hợp lý, nghiên cứu các loại phân bón mới nhằm canh tác lúa bền vững trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp; truyền thông làm hành động cho cộng đồng hiểu hơn về sức khỏe của đất, cũng như sản xuất bền vững.
Để cải thiện “sức khỏe” cho đất lúa, ông Trần Minh Tiến - Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS) đề xuất các địa phương, cơ quan chuyên môn đẩy mạnh mạnh tuyên truyền người nông dân các biện pháp quản lý nước hợp lý; bón phân cân đối (dinh dưỡng, hữu cơ - vô cơ), tái sử dụng tối đa rơm rạ, sử dụng giống chịu mặn, luân canh cây trồng hợp lý.
Ngoài ra, đại diện VAAS cũng kiến nghị xây dựng cơ sở dữ liệu chất lượng đất; xây dựng thang đánh giá sức khỏe đất lúa; mạng lưới quan trắc diễn biến chất lượng đất lúa; nghiên cứu ảnh hưởng của các nguyên tố trung và vi lượng; giải pháp hạn chế ảnh hưởng của các nguyên tố độc hại trong đất lúa; phát triển bộ chẩn đoán tính chất đất ngoài đồng ruộng. Đặc biệt, ông Tiến nhấn mạnh giải pháp phát triển hệ thống “bác sỹ đất.”
Diễn đàn kết thúc với cam kết hành động chung: tăng cường liên kết chuỗi giá trị, áp dụng công nghệ như quản lý rơm rạ cơ giới hóa và phân bón sinh học để giảm phát thải, đồng thời hướng tới mục tiêu 25% sản phẩm phân bón hữu cơ lưu hành đến năm 2025.
Những nỗ lực này không chỉ “trả lại sức sống” cho cánh đồng mỏi mệt mà còn góp phần thực hiện cam kết phát thải ròng bằng không vào năm 2050, xây dựng nền nông nghiệp Việt Nam xanh, thông minh và thịnh vượng.
Bảo Loan