Quốc hội giám sát toàn diện việc thực hiện Luật Bảo vệ môi trường 2020

Quốc hội giám sát toàn diện việc thực hiện Luật Bảo vệ môi trường 2020
3 giờ trướcBài gốc
Phó Trưởng đoàn ĐBQH thành phố Nguyễn Thị Sửu tham gia thảo luận ở hội trường. Ảnh: Đoàn ĐBQH TP cung cấp
Tham gia thảo luận, Phó Trưởng đoàn ĐBQH TP. Huế Nguyễn Thị Sửu đánh giá cao báo cáo kết quả giám sát. Bà Sửu cho rằng, đó là “bức tranh sinh động, phản ánh đầy đủ cả thành tựu và những hạn chế, tồn tại cần tiếp tục khắc phục trong thực thi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020”.
Đại biểu cho biết, trên cơ sở Báo cáo số 756 và 8 phụ lục chi tiết, điều quan trọng nhất là nghị quyết được ban hành phải thực sự trở thành nền tảng định hướng chính sách và hành động cụ thể cho giai đoạn tới, hướng tới sự phát triển bền vững giữa con người và tự nhiên.
Từ thực tế đó, đại biểu Nguyễn Thị Sửu nêu ba nhóm ý kiến chính đóng góp cho dự thảo nghị quyết.
Thứ nhất, về tên gọi của nghị quyết, đại biểu đề nghị chỉnh lý lại cho ngắn gọn, rõ nội dung cốt lõi, cụ thể là: “Nghị quyết về kết quả giám sát việc thực hiện Luật Bảo vệ môi trường và định hướng hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường”.
Theo đại biểu, tên nghị quyết hiện nay quá dài, dàn trải, chưa thể hiện được bản chất của văn bản sau giám sát là đánh giá kết quả, xác định tồn tại, từ đó đưa ra định hướng, nhiệm vụ mới. Việc rút gọn này cũng phù hợp với hình thức nghị quyết chuyên đề mà Quốc hội đã ban hành gần đây, như Nghị quyết 61/2022 về công tác quy hoạch hay Nghị quyết 74/2022 về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Thứ hai, về nội dung đánh giá và số liệu, đại biểu đề nghị bổ sung thông tin thể hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành trong quá trình giám sát, đồng thời làm rõ kết quả đạt được bằng các con số cụ thể: Chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường đạt không thấp hơn 1% tổng chi, năm 2024 là 1,12%.
Đại biểu Nguyễn Thị Sửu cũng kiến nghị bổ sung những tồn tại có tính định lượng, như đến tháng 9/2025, vẫn còn 38/435 cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng chưa xử lý triệt để, hay tỷ lệ cụm công nghiệp và làng nghề có hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn chỉ đạt 31,5% và 16,6%.
Về nguyên nhân, đại biểu lưu ý cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) vẫn gặp khó khăn do thiếu hạ tầng thu gom, tái chế đồng bộ, và cần được thể hiện rõ trong nghị quyết để bảo đảm tính thực tiễn.
Thứ ba, về nhiệm vụ và giải pháp, đại biểu thống nhất với ba nhóm giải pháp lớn trong dự thảo là thể chế, nguồn lực và chuyển đổi số, song đề nghị bổ sung 5 nội dung cụ thể: Xem chi cho môi trường là đầu tư cho phát triển, hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu về GDP xanh, bảo đảm cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. Sớm sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 ở các nội dung về quản lý chất thải rắn sinh hoạt, cơ chế EPR, thẩm quyền phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường nhằm khơi thông nguồn lực đầu tư. Triển khai thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon trong năm 2026, tiến tới vận hành chính thức từ năm 2027. Bảo đảm công khai, minh bạch dữ liệu môi trường theo thời gian thực, tạo điều kiện để người dân và doanh nghiệp tham gia giám sát. Có cơ chế ưu đãi thu hút nguồn lực chất lượng cao trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu.
Về tổ chức thực hiện nghị quyết, đại biểu đề nghị nêu rõ chủ thể giám sát trực tiếp, giao Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội thực hiện giám sát việc triển khai nghị quyết và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp giữa năm 2027.
“Ngắn gọn, rõ ràng, định lượng và có địa chỉ trách nhiệm cụ thể - đó là điều kiện để nghị quyết sau giám sát thật sự đi vào cuộc sống,” đại biểu Nguyễn Thị Sửu nhấn mạnh.
* Trước đó, sáng 28/10, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, Quốc hội nghe Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày báo cáo kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực”.
Theo ông Lê Quang Mạnh, sau gần 5 năm triển khai, công tác bảo vệ môi trường (BVMT) đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương đã ban hành hơn 500 văn bản hướng dẫn thi hành luật, hình thành khung thể chế đồng bộ, coi môi trường là một trong ba trụ cột phát triển bền vững. Hệ thống quy hoạch, tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường quốc gia được xây dựng, cập nhật, tiệm cận quốc tế.
Công tác BVMT có nhiều chuyển biến rõ rệt: tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị đạt hơn 97%; tỷ lệ khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; tỷ lệ che phủ rừng vượt kế hoạch. Ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp môi trường luôn đảm bảo tối thiểu 1% tổng chi, đồng thời nguồn lực xã hội hóa được khuyến khích mạnh mẽ.
Đoàn giám sát ghi nhận nhiều chuyển biến trong kiểm soát nguồn thải và xử lý chất thải: hơn 812 cơ sở được thanh tra, 348 cơ sở bị xử phạt với tổng số tiền 96,7 tỷ đồng; 14.863 vụ vi phạm về môi trường bị xử lý tại địa phương. Công nghệ xử lý rác thải đang dần chuyển từ chôn lấp sang tái chế, đốt phát điện, hướng tới kinh tế tuần hoàn.
Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ rõ nhiều tồn tại, bất cập. Tình trạng ô nhiễm không khí ở đô thị lớn, ô nhiễm nước sông tại các lưu vực trọng điểm vẫn nghiêm trọng. Hạ tầng xử lý nước thải, rác thải ở nhiều nơi lạc hậu; tỷ lệ nước thải đô thị được xử lý mới đạt khoảng 18%. Công tác thu gom, tái chế chất thải đặc thù như pin, điện tử, tấm quang năng còn hạn chế; công nghệ sản xuất ở nhiều cơ sở vẫn tiêu tốn năng lượng, phát thải cao.
Bên cạnh đó, nhận thức và ý thức trách nhiệm về BVMT ở một bộ phận cán bộ, doanh nghiệp, người dân còn chưa đầy đủ; một số nơi vẫn ưu tiên tăng trưởng kinh tế hơn là bảo vệ môi trường. Cơ chế phối hợp, thanh tra, xử lý vi phạm chưa đủ mạnh, chế tài còn thấp, thiếu tính răn đe.
Đoàn giám sát đề nghị Quốc hội ban hành nghị quyết riêng về chuyên đề này, yêu cầu Chính phủ rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật BVMT 2020 và các luật liên quan như thuế, phí, ngân sách, đầu tư… để tháo gỡ vướng mắc, khơi thông nguồn lực phát triển xanh. Trước mắt, tập trung hoàn thành các nhiệm vụ cấp bách đến cuối năm 2026, đặc biệt là thiết lập sàn giao dịch tín chỉ các-bon, xây dựng cơ chế thúc đẩy chuyển đổi xanh và phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Lê Thọ
Nguồn Thừa Thiên Huế : https://huengaynay.vn/kinh-te/quoc-hoi-giam-sat-toan-dien-viec-thuc-hien-luat-bao-ve-moi-truong-2020-159304.html