BHG - Chiều ngày 18.6, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã biểu quyết thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Đây là hai luật có ý nghĩa quan trọng không chỉ về mặt quản lý nhà nước mà còn góp phần trực tiếp vào việc cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chất lượng sống của người dân, thực hiện mục tiêu phát triển bền vững và thúc đẩy thực chất quá trình chuyển đổi xanh của nền kinh tế.
Quang cảnh phiên họp
Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa: Thay đổi căn bản phương thức quản lý theo rủi ro, tăng tính minh bạch và trách nhiệm
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa được thiết kế lại theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập, đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Điểm đổi mới quan trọng là phương thức quản lý theo mức độ rủi ro, phân loại hàng hóa thành ba nhóm: rủi ro thấp, trung bình và cao. Cách tiếp cận này thể hiện tư duy đổi mới quản lý nhà nước, từ cơ chế tiền kiểm nặng nề sang hậu kiểm có kiểm soát, trên cơ sở đánh giá rủi ro, qua đó nâng cao hiệu quả và tiết kiệm chi phí xã hội.
Luật cũng chú trọng đến các yếu tố công nghệ số như truy xuất nguồn gốc sản phẩm, sử dụng nhãn điện tử, hộ chiếu số sản phẩm. Đây là công cụ hữu hiệu để doanh nghiệp chứng minh tính minh bạch, chất lượng hàng hóa, đồng thời tạo thuận lợi cho người tiêu dùng tiếp cận thông tin đầy đủ, chính xác và có thể kiểm chứng. Bên cạnh đó, luật làm rõ khái niệm và vai trò của hạ tầng chất lượng quốc gia - một yếu tố nền tảng cho năng lực cạnh tranh quốc gia - bao gồm tiêu chuẩn, đo lường, thử nghiệm, chứng nhận và giám định. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tiếp cận hệ thống hạ tầng chất lượng cũng được cụ thể hóa, góp phần giảm chi phí tuân thủ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Đoàn ĐBQH Hà Giang bấm nút biểu quyết thông qua các dự án Luật
Đáng chú ý, luật bổ sung quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong chuỗi cung ứng - từ nhà sản xuất, nhập khẩu, phân phối đến người tiêu dùng - nhằm thiết lập cơ chế trách nhiệm giải trình chặt chẽ. Đây là tiền đề quan trọng để hình thành môi trường thị trường minh bạch, công bằng, lấy người tiêu dùng làm trung tâm.
Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả: Từ chính sách khuyến khích sang ràng buộc pháp lý, tạo động lực chuyển dịch năng lượng
Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải giảm phát thải khí nhà kính, thực hiện cam kết tại COP26 về đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Trong bối cảnh đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả có vai trò như một công cụ pháp lý quan trọng để thúc đẩy hành động thực chất và có trách nhiệm từ phía các tổ chức, doanh nghiệp và người dân.
Luật lần này bổ sung nhiều quy định mang tính bắt buộc đối với các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm, yêu cầu các đơn vị này ký cam kết tự nguyện giảm mức tiêu thụ năng lượng, tiến tới thiết lập nghĩa vụ pháp lý rõ ràng về kiểm toán năng lượng, thực hiện các biện pháp cải tiến công nghệ và tối ưu hóa vận hành. Một trong những điểm sáng là quy định làm rõ và hoàn thiện cơ chế hợp đồng hiệu quả năng lượng (ESCO), cho phép doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tiết kiệm năng lượng thực hiện cải tiến công nghệ cho khách hàng mà không đòi hỏi đầu tư ban đầu từ phía khách hàng, chi phí được hoàn trả từ phần tiết kiệm năng lượng đạt được. Cơ chế này nếu được triển khai rộng rãi sẽ trở thành một đòn bẩy mạnh mẽ cho đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp.
Ngoài ra, luật hướng tới thể chế hóa các công cụ tài chính xanh như tín dụng ưu đãi, quỹ hỗ trợ đầu tư tiết kiệm năng lượng, đồng thời đề xuất tăng cường lồng ghép mục tiêu tiết kiệm năng lượng vào các kế hoạch phát triển KT - XH, đặc biệt ở cấp tỉnh, thành phố. Minh bạch hóa dữ liệu năng lượng và nâng cao trách nhiệm của các chủ thể liên quan là nội dung xuyên suốt của luật, tạo cơ sở cho việc giám sát độc lập và đánh giá chính sách trên thực tế.
Từ quản lý hành chính sang kiến tạo và kiểm soát thông minh
Điểm chung của cả hai đạo luật là đều thể hiện sự chuyển hướng rõ nét trong tư duy lập pháp: từ quản lý hành chính cứng nhắc sang quản trị rủi ro, từ khuyến khích sang chế tài hợp lý, từ tiền kiểm sang hậu kiểm dựa trên dữ liệu và công nghệ số. Điều này không chỉ giúp tăng hiệu quả thực thi pháp luật mà còn góp phần giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp, thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc gia và bảo đảm công bằng, minh bạch trên thị trường.
Việc Quốc hội thông qua hai đạo luật này cho thấy quyết tâm đổi mới trong hoàn thiện thể chế, hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển nhanh, bền vững và thân thiện với môi trường. Đây là nền tảng pháp lý quan trọng để Việt Nam từng bước hội nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, chuyển đổi năng lượng công bằng và xây dựng một xã hội tiêu dùng có trách nhiệm, hướng đến tương lai xanh và bền vững.
Duy Tuấn (tổng hợp)