Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng
Người ứng cử, được bầu cử chỉ được có một quốc tịch Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam gồm 3 Điều.
Theo đó, sửa đổi, bổ sung khoản 4 và bổ sung các khoản 5, 6, 7 và 8 vào sau khoản 4 Điều 5 như sau:
“4. Trên lãnh thổ Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận quốc tịch Việt Nam đối với công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài trong quan hệ với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác. Quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài đang định cư ở nước ngoài được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
5. Người ứng cử, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, chỉ định giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, MTTQ Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, địa phương; người làm việc trong tổ chức cơ yếu; người tham gia lực lượng vũ trang của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam.
6. Công chức, viên chức không thuộc quy định tại khoản 5 Điều này phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam. Chính phủ quy định chi tiết khoản này.
Đoàn ĐBQH Hà Nội biểu quyết tại phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng
7. Trường hợp luật khác ban hành trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành có quy định về quốc tịch khác với quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều này thì áp dụng quy định của Luật này; trường hợp luật khác ban hành sau ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà có quy định về quốc tịch khác với quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều này thì phải xác định cụ thể nội dung thực hiện hoặc không thực hiện quy định này, nội dung thực hiện theo quy định của luật khác đó.
8. Quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Việt Nam liên quan đến quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này không bị khiếu nại, khiếu kiện”.
Sửa đổi, bổ sung khoản 2 và bổ sung khoản 3 vào sau khoản 2 Điều 13 như sau:
“2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa mất quốc tịch Việt Nam mà không có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 11 của Luật này thì đề nghị với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để được xác nhận có quốc tịch Việt Nam.
3. Chính phủ quy định trình tự, thủ tục xác nhận có quốc tịch Việt Nam.”…
Khẳng định rõ nguyên tắc một quốc tịch trong pháp luật quốc tịch Việt Nam
Trước đó, Báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày cho biết, một số ý kiến đề nghị thuyết minh, làm rõ để bảo đảm tính khả thi của quy định nới lỏng điều kiện nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam cũng như yêu cầu về bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam. Ảnh: Phạm Thắng
Một số ý kiến đề nghị rà soát Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Dẫn độ, Luật Cư trú và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam... liên quan đến vấn đề quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài.
Chính phủ cho rằng, để áp dụng thống nhất pháp luật đối với công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 5 theo hướng luật hóa quy định tại Điều 5 Nghị định số 16/2020/NĐ-CP. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc mà pháp luật quốc tịch của hầu hết các nước đều quy định.
Quy định trên nhằm khẳng định rõ ràng hơn nguyên tắc một quốc tịch trong pháp luật quốc tịch Việt Nam; bảo đảm phù hợp với các quy định có liên quan như Bộ Luật Dân sự , Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.
Đoàn ĐBQH tỉnh Hòa Bình tham dự phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng
Đồng thời, dự thảo Luật đã có quy định giao các Bộ, ngành và cơ quan có liên quan rà soát; sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Về quy định tại khoản 5, khoản 6 và khoản 7 Điều 5, Chính phủ đã chỉnh lý để thực hiện kết luận của Bộ Chính trị đối với dự án Luật.
Đồng thời tiếp thu ý kiến của các ĐBQH đề nghị cân nhắc kỹ quy định ngoại lệ đối với cả 4 nhóm đối tượng, nhất là các chức danh thuộc lực lượng vũ trang và cơ quan dân cử, cơ yếu do đây là những vị trí yêu cầu tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhà nước và Nhân dân, liên quan đến vấn đề an ninh quốc gia.
Theo đó, tại khoản 5 Điều 5 quy định theo hướng quy định nguyên tắc “phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam” đối với 4 nhóm và chỉ quy định ngoại lệ đối với nhóm công chức, viên chức (trừ công chức, viên chức công tác trong lực lượng vũ trang) nhằm thu hút các trường hợp có tài năng vượt trội có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đồng thời, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã quy định cụ thể nguyên tắc áp dụng pháp luật trong trường hợp luật khác có quy định về quốc tịch khác với quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều này…
Thành Trung