Bổ sung cơ chế hậu kiểm về phòng cháy, chữa cháy
Góp ý tại Điều 4 quy định về quỹ Nhà ở quốc gia, ĐBQH Lê Thị Song An nhấn mạnh: Quy định về nguồn hình thành Quỹ Nhà ở quốc gia tuy bao quát nhiều kênh huy động, nhưng thực tiễn vẫn còn một số bất cập cần xem xét. Việc quy định nhiều nguồn thu như hỗ trợ tự nguyện hay đóng góp từ tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước chưa có cơ chế kiểm soát minh bạch, dễ phát sinh rủi ro về pháp lý và tài chính. Đồng thời, cũng chưa có quy định rõ ràng về đơn vị quản lý quỹ, nguyên tắc phân bổ và giám sát sử dụng quỹ, điều này sẽ dẫn đến nguy cơ thất thoát hoặc sử dụng sai mục đích. Ngoài ra, cách xác định “giá trị tương đương quỹ đất” và nguồn từ bán tài sản công nếu không được quy định cụ thể, có thể gây thất thu ngân sách hoặc làm giảm nguồn lực nhà ở xã hội trong dài hạn.
ĐBQH Lê Thị Song An ( Long An) phát biểu tại tổ sáng 21/5. Ảnh: Khánh Duy
Từ thực tế trên, đại biểu đề nghị cân nhắc, bổ sung quy định chặt chẽ hơn về cơ chế vận hành, cơ quan nào quản lý quỹ, công khai tài chính và giám sát độc lập để đảm bảo Quỹ Nhà ở quốc gia thực sự phát huy hiệu quả và đúng mục tiêu phục vụ an sinh xã hội.
Liên quan đến thủ tục đầu tư xây dựng nhà ở xã hội (Điều 7), ĐBQH Lê Thị Song An cho rằng: Tại khoản 2 quy định việc lồng ghép thẩm định thiết kế phòng cháy, chữa cháy vào thủ tục cấp giấy phép xây dựng là một chủ trương đúng nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Tuy nhiên, đại biểu cũng bày tỏ sự băn khoăn và đề nghị Ban soạn thảo rà soát, bổ sung thêm cơ chế phối hợp giữa cơ quan xây dựng và cơ quan phòng cháy, chữa cháy chưa rõ ràng, gây lúng túng và kéo dài thời gian xử lý hồ sơ. Bởi, thực tiễn tại một số địa phương vẫn thực hiện tách biệt, khiến doanh nghiệp phải nộp hai bộ hồ sơ, mất nhiều thời gian và chi phí (cơ quan chuyên môn về xây dựng là Sở Xây dựng; cơ quan quản lý về PCCC là Cảnh sát PCCC). Bên cạnh đó, năng lực chuyên môn về PCCC tại cơ quan xây dựng còn hạn chế, tiềm ẩn rủi ro nếu việc thẩm định không được thực hiện đầy đủ, đặc biệt với công trình có nguy cơ cao.
Ngoài ra, với các công trình được miễn giấy phép xây dựng như nhà ở xã hội dùng thiết kế mẫu tại khoản 3, hiện chưa có hướng dẫn rõ về quy trình thẩm định PCCC, tạo ra khoảng trống pháp lý. Do đó, đề nghị cần có hướng dẫn thống nhất liên ngành, làm rõ trách nhiệm phối hợp và bổ sung cơ chế hậu kiểm để đảm bảo an toàn PCCC trong thực tế.
Điều kiện về nhà ở cần điều chỉnh theo hướng linh hoạt hơn
Góp ý điều kiện về nhà ở được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội (Điều 9), ĐBQH Lê Thị Song An cũng chỉ rõ: Quy định yêu cầu người lao động đã có nhà ở thuộc sở hữu thì chỉ được mua nhà ở xã hội gần nơi làm việc nếu khoảng cách từ nhà đến nơi làm việc từ 30 km trở lên là nhằm kiểm soát đúng đối tượng. Tuy nhiên, quy định này còn một số bất cập, cần được điều chỉnh để phù hợp hơn với hoàn cảnh thực tế và mục tiêu an sinh xã hội.
Phân tích kỹ hơn vấn đề trên, đại biểu cho rằng: việc quy định cứng nhắc khoảng cách 30 km là quá cao trong điều kiện hạ tầng giao thông và phương tiện đi lại của người lao động hiện nay, đặc biệt là công nhân, người làm việc theo ca tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Việc di chuyển mỗi ngày trên quãng đường 30 km trở lên là gánh nặng lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe, an toàn giao thông và năng suất lao động.
Bên cạnh đó, quy định chưa xét đến các yếu tố đặc thù như tính chất nghề nghiệp (người làm việc theo ca, lao động nữ, người làm việc ở vùng sâu, vùng xa…), điều kiện giao thông (kẹt xe, hạ tầng kém phát triển), hoặc hoàn cảnh thực tế (nhà ở tuy có sở hữu nhưng không sử dụng được do xa xôi, điều kiện không đảm bảo, đang cho người thân sử dụng, hoặc không thể chuyển đến sinh sống vì lý do gia đình…). Những trường hợp này nếu áp dụng máy móc quy định 30 km sẽ khiến nhiều người thực sự có nhu cầu và phù hợp không được tiếp cận chính sách, làm giảm tính công bằng và hiệu quả của chương trình nhà ở xã hội.
Về mặt pháp lý, đại biểu cũng cho rằng, các điều kiện về nhà ở để được hưởng chính sách hỗ trợ nhà ở xã hội cần bảo đảm đánh giá khách quan theo tình trạng cư trú thực tế và nhu cầu sử dụng, song việc quy định cứng một khoảng cách 30 km là chưa phản ánh đúng tinh thần này. Theo đó, đại biểu Lê Thị Song An đề nghị cần xem xét điều chỉnh quy định theo hướng linh hoạt hơn - có thể đánh giá theo thời gian di chuyển thực tế, điều kiện hạ tầng và tính chất nghề nghiệp, để chính sách phát huy hiệu quả và hỗ trợ đúng người, đúng nhu cầu.
Cần quy định khung về mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước theo từng loại hình, quy mô dự án
Liên quan đến vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đầu tư hệ thống hạ tầng kỹ thuật, tạo quỹ đất phát triển nhà ở xã hội (Điều 11), ĐBQH Lê Thị Song An đánh giá cao quy định tại khoản 1 về việc giao UBND cấp tỉnh sử dụng ngân sách nhà nước để thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư và đầu tư hạ tầng kỹ thuật ngoài phạm vi dự án nhà ở xã hội. Đại biểu cho rằng, đây là một chủ trương đúng đắn, thể hiện vai trò đồng hành của Nhà nước trong việc phát triển nhà ở cho người thu nhập thấp, nhất là trong bối cảnh việc thu hút đầu tư vào phân khúc này đang gặp nhiều khó khăn do chi phí đầu tư lớn và lợi nhuận bị khống chế.
Dẫn chứng việc này, ĐBQH Lê Thị Song An nêu thực tiễn triển khai tại một số địa phương cho thấy hiệu quả tích cực bước đầu. Điển hình như tại tỉnh Long An, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 15/2024/NQ-HĐND ngày 15/10/2024, thống nhất cơ chế Nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí đầu tư hạ tầng kỹ thuật kết nối ngoài phạm vi dự án nhà ở xã hội. Đây là cách làm đáng khuyến khích, góp phần đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án, nâng cao chất lượng sống cho người dân.
Tuy nhiên, đại biểu cho rằng, vẫn còn một số điểm chưa thống nhất, thiếu đồng bộ giữa quy định pháp luật và thực tế triển khai, cụ thể: quy định hiện hành chưa xác định rõ tỷ lệ hoặc khung mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho từng phần việc. Ví dụ như bồi thường, giải phóng mặt bằng, đầu tư hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào dự án. Việc không có tiêu chí cụ thể khiến các địa phương lúng túng trong việc lập kế hoạch và phân bổ ngân sách. Đồng thời, gây ra sự thiếu thống nhất giữa các tỉnh, dẫn đến chênh lệch về mức độ hỗ trợ và tính hấp dẫn giữa các dự án.
Bên cạnh đó, nhiều địa phương có ngân sách hạn hẹp gặp khó khăn trong việc bố trí nguồn vốn kịp thời. Điều này làm chậm tiến độ thực hiện các dự án nhà ở xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp cận nhà ở của người dân thu nhập thấp, trái với chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển nhà ở xã hội một cách bền vững, đồng bộ.
Mặt khác, việc phân tách quá rõ ràng giữa phần việc của Nhà nước (đầu tư hạ tầng kết nối) và phần việc của doanh nghiệp (xây dựng nhà ở) có thể gây thiếu đồng bộ trong triển khai. Trên thực tế, có nhiều trường hợp nhà ở đã xây xong nhưng hạ tầng đường, điện, nước bên ngoài vẫn chưa hoàn thiện do chậm giải ngân vốn đầu tư công. Hậu quả là người dân không thể vào ở, chủ đầu tư không thể bàn giao công trình đúng hạn, từ đó làm giảm hiệu quả đầu tư và niềm tin thị trường.
Từ những bất cập nêu trên, đại biểu đề xuất cần bổ sung cơ chế phân cấp, quy định khung về mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước theo từng loại hình, quy mô dự án để bảo đảm tính khả thi và công bằng giữa các địa phương (ví dụ như hỗ trợ tối thiểu 50% chi phí bồi thường GPMB và 100% chi phí đầu tư hạ tầng ngoài hàng rào đối với các dự án nhà ở xã hội sử dụng đất do Nhà nước quản lý). Đồng thời cho phép một số địa phương hoặc chủ đầu tư có năng lực được tạm ứng hoặc tham gia đầu tư hạ tầng ngoài dự án, để bảo đảm bảo tiến độ và hiệu quả thực tế; tăng cường kiểm tra và công khai tiến độ thực hiện công tác hỗ trợ, bồi thường và đầu tư hạ tầng tại các địa phương để bảo đảm tính minh bạch, tránh tình trạng doanh nghiệp bị động, người dân chậm được thụ hưởng.
Hải Thanh