Quy định rõ hơn về giá trị viện dẫn của văn bản hợp nhất

Quy định rõ hơn về giá trị viện dẫn của văn bản hợp nhất
3 giờ trướcBài gốc
Có lộ trình hợp nhất văn bản của cấp xã
Theo báo cáo nghiên cứu của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính (KTVB&XLVPHC), có một số quy định tại Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung. Trong đó, về việc bổ sung việc hợp nhất văn bản của chính quyền địa phương, Điều 4 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2025 quy định văn bản QPPL của chính quyền địa phương bao gồm: Nghị quyết của HĐND, Quyết định của UBND, Quyết định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh; văn bản QPPL của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; Nghị quyết của HĐND, Quyết định của UBND cấp xã.
Do đó, để bảo đảm tính minh bạch của hệ thống pháp luật, bảo đảm việc tổ chức hoạt động hợp nhất văn bản QPPL được đồng bộ từ Trung ương đến địa phương thì các văn bản QPPL khi được sửa đổi, bổ sung đều phải được thực hiện hợp nhất. Như vậy, việc hợp nhất đối với văn bản của chính quyền địa phương cần phải được thực hiện đối với văn bản QPPL của cấp tỉnh, cấp xã và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Để khắc phục khó khăn trong thực hiện thì Cục KTVB&XLVPHC đề xuất, có thể quy định trách nhiệm hợp nhất văn bản QPPL của cấp xã theo lộ trình (triển khai việc hợp nhất văn bản QPPL của cấp xã khi tổ chức bộ máy, số lượng, chất lượng nhân sự của chính quyền cấp xã đã cơ bản đi vào hoạt động ổn định, đáp ứng triển khai hiệu quả, toàn diện các nhiệm vụ theo mô hình chính quyền địa phương 02 cấp; việc xây dựng, ban hành văn bản QPPL của cấp xã đi vào nền nếp, bảo đảm chất lượng, cơ bản không còn phát sinh khó khăn, vướng mắc trong công tác xây dựng, ban hành văn bản QPPL của cấp này hoặc thông qua vai trò của Sở Tư pháp để hỗ trợ chính quyền cấp xã trong việc hợp nhất văn bản thời gian đầu).
Về phạm vi văn bản thuộc đối tượng hợp nhất, Cục KTVB&XLVPHC đề xuất 2 phương án: Phương án 1 mở rộng phạm vi văn bản thuộc đối tượng hợp nhất bao gồm tất cả những văn bản có tác động về nội dung, hiệu lực của văn bản QPPL (trừ văn bản QPPL thay thế) bao gồm: Văn bản QPPL sửa đổi, bổ sung; Văn bản QPPL không ban hành dưới dạng văn bản sửa đổi, bổ sung nhưng có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ một phần văn bản QPPL; Các văn bản khác (văn bản hành chính) có nội dung làm hết hiệu lực một phần, tạm ngưng hiệu lực một phần hoặc đính chính văn bản QPPL (văn bản công bố nội dung hết hiệu lực/còn hiệu lực của văn bản QPPL, văn bản đính chính văn bản QPPL, văn bản tạm ngưng một phần hiệu lực văn bản QPPL, văn bản đình chỉ một phần văn bản QPPL...).
Phương án 2 giữ như quy định hiện nay tại Điều 2 Pháp lệnh năm 2012 (văn bản thuộc đối tượng hợp nhất chỉ bao gồm văn bản sửa đổi, bổ sung và văn bản được sửa đổi, bổ sung).
Về giá trị pháp lý của văn bản hợp nhất, cũng có 2 phương án được đưa ra. Phương án 1 bổ sung quy định về việc văn bản hợp nhất được sử dụng chính thức trong viện dẫn để áp dụng, thi hành pháp luật. Phương án 2 giữ như quy định hiện nay tại Điều 4 Pháp lệnh năm 2012 (văn bản hợp nhất được sử dụng chính thức trong việc áp dụng và thi hành pháp luật).
Quang cảnh cuộc họp. (Ảnh: PV)
Tại cuộc họp, trên cơ sở báo cáo của Cục KTVB&XLVPHC, đại diện các Bộ, ngành tán thành sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh năm 2012 và đã tập trung thảo luận, cho ý kiến đối với phạm vi văn bản thuộc đối tượng hợp nhất; giá trị pháp lý của văn bản hợp nhất; quy trình thực hiện hợp nhất văn bản; cơ quan ký xác thực văn bản hợp nhất; ứng dụng khoa học công nghệ trong hợp nhất văn bản QPPL…
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật (Văn phòng Chính phủ) Phạm Thúy Hạnh nhận thấy quy định về giá trị pháp lý của văn bản hợp nhất tại Pháp lệnh hiện hành trong thực thi thời gian qua là chưa đạt được đúng kỳ vọng. Vì vậy, bà đề nghị phân tích kỹ lưỡng để xem vấn đề nằm ở quy định hay thực thi để có giải pháp, nếu quy định pháp luật chưa đủ để khẳng định giá trị của văn bản hợp nhất thì cần nghiên cứu quy định rõ ràng hơn, thể hiện được tính chế tài bắt buộc của văn bản hợp nhất. Với phương án 2 về giá trị của văn bản hợp nhất theo đề xuất của Cục KTVB&XLVPHC, theo bà, không giải quyết được vấn đề hiện nay, chưa bảo đảm tính đồng bộ, đạt mục tiêu của văn bản hợp nhất là có thể tra cứu, cập nhật.
Bà Phạm Thúy Hạnh cũng kiến nghị quy định dự thảo văn bản hợp nhất được cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản QPPL sửa đổi, bổ sung xây dựng, trình đồng thời với việc trình dự thảo văn bản QPPL sửa đổi, bổ sung; đồng thời đề xuất Bộ Tư pháp nghiên cứu xây dựng phần mềm hợp nhất dùng chung.
Bà Nguyễn Thị Bích, Phó Trưởng Phòng, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, TANDTC cho biết, thực tế không có bản án, quyết định nào của TAND ghi căn cứ áp dụng là văn bản hợp nhất, lý do là văn bản hợp nhất không phải là văn bản QPPL. TAND khi viện dẫn thì sẽ viện dẫn văn bản QPPL hiện hành (quy định nào được sửa đổi, bổ sung thì viện dẫn theo văn bản QPPL sửa đổi, bổ sung). Từ đó, bà đề nghị giữ nguyên Điều 4 Pháp lệnh hiện nay về giá trị pháp lý của văn bản hợp nhất.
Đánh giá các định hướng đề xuất sửa đổi Pháp lệnh năm 2012 của Bộ Tư pháp cơ bản khắc phục được các vướng mắc, bất cập hiện nay, bà Nguyễn Thị Bích tán thành việc mở rộng hợp nhất với văn bản của chính quyền cấp tỉnh, xã; phạm vi hợp nhất bao gồm cả văn bản đính chính văn bản QPPL, văn bản tạm ngưng một phần hiệu lực văn bản QPPL…; cơ quan ký xác thực văn bản hợp nhất thì nên phân loại theo các loại văn bản…
Nghiên cứu mở rộng phạm vi một số văn bản thuộc đối tượng hợp nhất
Làm rõ một số vấn đề được các đại biểu góp ý về giá trị pháp lý của văn bản hợp nhất, Cục trưởng Cục KTVB&XLVPHC Hồ Quang Huy bày tỏ mong muốn hướng đến là văn bản hợp nhất được sử dụng một cách rộng rãi và thường xuyên trong các văn bản của cơ quan nhà nước. Điều 4 Pháp lệnh hiện hành đã quy định rất rõ về giá trị pháp lý của văn bản hợp nhất, còn định hướng sửa đổi là đưa ra một số quy định để làm rõ hơn thế nào là áp dụng thống nhất, thế nào là có giá trị chính thức nên Cục cho rằng phương án 1 là phương án khả thi và phù hợp để tăng độ thuyết phục và niềm tin của người dân khi sử dụng các văn bản hợp nhất.
Cục trưởng Hồ Quang Huy làm rõ một số vấn đề được các đại biểu góp ý. (Ảnh: PV)
Để thúc đẩy nhanh tiến trình hợp nhất, Cục trưởng Hồ Quang Huy chia sẻ, qua đánh giá thực tiễn cho thấy, một nguyên nhân khiến văn bản hợp nhất chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn là chậm hợp nhất. Vì thế, việc ứng dụng công nghệ thông tin để rút ngắn thời gian hợp nhất là yêu cầu cấp thiết. Việc rút ngắn thời gian hợp nhất cũng sẽ khuyến khích việc tra cứu, sử dụng các văn bản hợp nhất. Trong lộ trình ứng dụng công nghệ thông tin, Bộ Tư pháp đã có đề án về xây dựng hệ thống pháp luật số, trong đó có về soạn thảo trên phần mềm, hợp nhất trên phần mềm thì sẽ rút ngắn được thời gian hợp nhất…
Kết luận cuộc họp, Thứ trưởng Phan Chí Hiếu biểu dương Cục KTVB&XLVPHC đã chuẩn bị kỹ tài liệu phục vụ cuộc họp và đánh giá cao các ý kiến hết sức sâu sắc, trách nhiệm, sáng tỏ nhiều vấn đề, nhất là các vấn đề liên quan đến thực tiễn thực hiện công tác hợp nhất văn bản của đại diện các Bộ, ngành. Cơ bản thống nhất với tiến độ, quy trình thủ tục xây dựng dự thảo Pháp lệnh, Thứ trưởng yêu cầu nhấn mạnh thêm việc làm tốt công tác hợp nhất văn bản sẽ góp phần đảm bảo tính công khai, minh bạch, dễ tiếp cận, dễ sử dụng của hệ thống văn bản QPPL và qua đó, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tổ chức thi hành pháp luật.
Về các định hướng sửa đổi, bổ sung, Thứ trưởng cùng các đại biểu thống nhất rất cao với quy định bổ sung việc hợp nhất văn bản của cả cấp tỉnh, cấp xã và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Đặc biết, về giá trị pháp lý của văn bản hợp nhất, Thứ trưởng nhất trí giữ nguyên quy định tại Điều 4 Pháp lệnh hiện hành và quy định rõ hơn về giá trị viện dẫn của văn bản hợp nhất theo hướng được viện dẫn trực tiếp; cân nhắc quy định rõ hơn việc xử lý các trường hợp có sai sót trong văn bản hợp nhất.
Liên quan đến phạm vi văn bản thuộc đối tượng hợp nhất, theo Thứ trưởng, mục đích của công tác hợp nhất là làm cho hệ thống pháp luật minh bạch, dễ tiếp cận, dễ sử dụng thì cần rà soát, nghiên cứu mở rộng phạm vi một số văn bản như các văn bản đính chính, kể cả văn bản hành chính, đính chính kỹ thuật, đồng thời cân nhắc cả văn bản tạm ngưng hiệu lực, hết hiệu lực. Thứ trưởng lưu ý không tiến hành hợp nhất các văn bản thực hiện Nghị quyết 190 của Quốc hội, các Nghị quyết thí điểm, các Nghị quyết của Chính phủ được ban hành theo cơ chế đặc biệt của Nghị quyết 206 của Quốc hội.
Minh Hòa
Nguồn Pháp Luật VN : https://baophapluat.vn/quy-dinh-ro-hon-ve-gia-tri-vien-dan-cua-van-ban-hop-nhat.html