Ảnh minh họa.
Theo Quyết định số 973/QĐ-BXD của Bộ Xây dựng về quy hoạch chi tiết phát triển vùng đất, vùng nước cảng biển An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, hệ thống cảng biển của tỉnh sẽ có những bước chuyển mình mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng hàng hóa của khu vực.
Để cụ thể hóa mục tiêu trên, quy hoạch đã phân định rõ vai trò và quy mô cho từng khu bến chính trong giai đoạn đến năm 2030. Trong đó, khu bến Mỹ Thới được xác định là khu bến chính, đóng vai trò trụ cột với sản lượng hàng hóa thông qua dự kiến từ 2,65 đến 2,80 triệu tấn. Hạ tầng tại đây sẽ bao gồm 3 cầu cảng tổng hợp và container với tổng chiều dài 386 m, có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải lên đến 10.000 tấn.
Khu bến Bình Long sẽ đảm nhận lượng hàng hóa từ 0,25 đến 0,30 triệu tấn. Khu bến này được quy hoạch gồm 1 cầu cảng tổng hợp dài 200 m, cũng có năng lực tiếp nhận tàu 10.000 tấn.
Tầm nhìn đến năm 2050, quy hoạch định hướng tốc độ tăng trưởng hàng hóa bình quân đạt từ 5,5% - 6,1%/năm, đồng thời tiếp tục đầu tư phát triển các bến cảng mới để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng trong dài hạn.
Để đạt được mục tiêu này, quy hoạch cũng đã phân bổ năng lực cụ thể cho từng khu bến. Theo đó, khu bến Mỹ Thới sẽ là trụ cột chính, đảm nhận sản lượng từ 2,65 đến 2,80 triệu tấn hàng hóa thông qua 3 cầu cảng tổng hợp và container, trong khi khu bến Bình Long sẽ thông qua từ 0,25 đến 0,30 triệu tấn với 1 cầu cảng tổng hợp.
Một trong những điểm nhấn của quy hoạch là định hướng đầu tư vào hạ tầng luồng lạch. Cụ thể, dự án cải tạo, nâng cấp luồng cho tàu trọng tải lớn vào sông Hậu (giai đoạn 2) sẽ được triển khai để hoàn chỉnh, cho phép tàu 10.000 tấn đầy tải và tàu 20.000 tấn giảm tải có thể ra vào. Trường hợp huy động nguồn xã hội hóa, cho phép đầu tư luồng hàng hải phù hợp với quy mô bến cảng theo quy hoạch.
Bên cạnh đó, các dự án ưu tiên đầu tư cũng được xác định rõ, bao gồm việc đầu tư hệ thống giám sát và điều phối giao thông hàng hải (VTS), xây dựng bến công vụ và các cơ sở vật chất khác phục vụ quản lý nhà nước, đảm bảo an toàn và hiệu quả khai thác.
Tổng nhu cầu vốn đầu tư cho giai đoạn đến năm 2030 ước tính khoảng 508 tỷ đồng, trong đó vốn cho hạ tầng hàng hải công cộng là 50 tỷ đồng và vốn cho các bến cảng kinh doanh là 458 tỷ đồng. Nhu cầu sử dụng đất khoảng 15 ha và mặt nước là 455 ha.
Để hiện thực hóa quy hoạch, một hệ thống giải pháp đồng bộ đã được đưa ra. Về vốn, chủ trương là tiếp tục hoàn thiện cơ chế để huy động đa dạng các nguồn lực, đặc biệt là đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư, khai thác hiệu quả nguồn lực từ quỹ đất, mặt nước và tăng cường vai trò của doanh nghiệp trong việc đầu tư, bảo trì hạ tầng.
Đặc biệt, quy hoạch dành sự quan tâm lớn đến phát triển bền vững. Giải pháp về môi trường, khoa học công nghệ được nhấn mạnh, khuyến khích các nhà đầu tư khai thác cảng ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số, đẩy mạnh sử dụng phương tiện, thiết bị chạy bằng điện, năng lượng xanh.
Quyết định cũng nêu rõ việc sẽ xây dựng các cơ chế ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp cảng xanh, cảng biển thông minh và đưa tiêu chí "cảng xanh" trở thành một trong những điều kiện để xem xét, lựa chọn nhà đầu tư.
Tại Quyết định, Bộ Xây dựng giao Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam chủ trì công bố, kiểm tra và giám sát việc thực hiện quy hoạch cảng biển An Giang; phối hợp với địa phương trong quản lý chuyên ngành hàng hải; tham mưu xử lý các dự án liên quan đến xây dựng, mở rộng bến cảng và giao thông kết nối.
Đồng thời, Cục cũng nghiên cứu đề xuất cập nhật quy hoạch, sửa đổi văn bản pháp luật, hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện đúng quy hoạch, bảo đảm phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang có trách nhiệm chỉ đạo lập quy hoạch địa phương phù hợp quy hoạch cảng, bố trí quỹ đất, đảm bảo đồng bộ hạ tầng kết nối. Tỉnh cũng phối hợp chặt với Cục Hàng hải và Đường thủy, các cơ quan liên quan trong quá trình thẩm định, cấp phép đầu tư và công bố khu vực tiếp nhận, xử lý chất nạo vét tại vùng nước cảng biển An Giang.
Thanh Thủy