Rối cạn Tế Tiêu: Đánh thức di sản trăm năm tuổi

Rối cạn Tế Tiêu: Đánh thức di sản trăm năm tuổi
4 giờ trướcBài gốc
Từ huyền tích dân gian đến thời kỳ vàng son
Nghệ nhân Phạm Văn Bể lúc sinh thời (Ảnh: Lê Bích)
Theo dân gian kể lại, rối cạn Tế Tiêu đã có bề dày lịch sử hơn bốn trăm năm. Tương truyền vào năm Hưng Phúc 1573 dưới thời Lê Trung Hưng, một vị quan tên là Trần Triều Đông Hải đã có công về Tế Tiêu khai khẩn đất hoang, lập làng giữ nước, dạy dân trồng cấy và phát minh ra nghề rối. Từ đó, cứ vào các dịp lễ hội, việc làng, rối cạn đã trở thành một nét sinh hoạt văn hóa thường niên của người dân bên bờ sông Đáy. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm được một bằng chứng thư tịch nào ghi rõ về việc này, kể cả trên những trang thần phả còn sót lại của làng.
Mặt khác, theo công trình nghiên cứu về Nghệ thuật múa rối Việt Nam của Nguyễn Huy Hồng (xuất bản năm 1974), nghệ thuật múa rối cạn đã được sáng tạo và thực hành từ đời ông Cao – một người không rõ ở Nam Định hay Thanh Hóa phiêu bạt đến làng sinh sống. Ông Cao biết làm rối, diễn các trò và sau đó truyền nghề cho ông phó Tường, phó Lao. Ông phó Tường là người đã đứng ra lập phường rối với khoảng năm, sáu người. Tuy nhiên, những chứng tích vật thể và phi vật thể liên quan đến hai nghệ nhân này về rối cạn Tế Tiêu hiện không còn lưu giữ.
Theo ghi chép, năm 1927, nghệ nhân Lê Năng Nhượng đã tổ chức lại phường rối, tập hợp các nghệ nhân và gây dựng lại nhiều trò diễn được người dân ưa chuộng. Tuy nhiên, đến thập niên 1930, đời sống khó khăn khiến phường lại tan rã, chỉ còn cụ Nhượng mang theo con rối đi biểu diễn khắp nơi để giữ nghề. Trải qua nhiều thời kỳ bị gián đoạn, loại hình sân khấu dân gian này lại được hồi sinh trên mảnh đất Tế Tiêu vào những năm 1954-1957.
Đặc biệt, rối cạn Tế Tiêu phát triển mạnh vào những thập niên 70 nhờ sự cống hiến của các bậc nghệ nhân tiền bối như: nghệ nhân Lê Năng Nhượng, nghệ nhân Phạm Văn Bể,... Trong giai đoạn 1979-1980, cụ Phạm Văn Bể và các nghệ nhân trong làng đã vực dậy được phường rối Tế Tiêu. Phường rối hồi sinh trong sự hưởng ứng nhiệt tình, động viên, khích lệ từ phía nhân dân và chính quyền địa phương. Sau nhiều năm gián đoạn, món ăn tinh thần mà bà con trong làng mong chờ đã trở lại. Cụ Bể đã tập hợp những người có cùng tâm huyết, góp công, góp của hăng hái chế tác con rối, tập luyện các tích trò cổ và sáng tạo nên nhiều tích trò mới phục vụ công tác tuyên truyền, giáo dục. Vào mỗi dịp hội hay lễ Tết, phường rối lại kéo xe ba gác đưa rối đi biểu diễn, mang tiếng cười và câu chuyện dân gian đến với bà con trong làng và các xã, tỉnh lân cận.
Đối với bà con trong làng, múa rối Tế Tiêu được coi là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa dân gian.
“Cứ vào mỗi nông vụ chín kỳ khi gặt hái xong, bà con lại muốn xem rối để giải trí hoặc động viên nhau. Những trò diễn được tái hiện mang mục đích chính là động viên tinh thần người lao động. Bây giờ thì múa rối Tế Tiêu vẫn đóng vai trò giải trí nhưng trong đấy còn bao gồm cả tính giáo dục: điều xấu thì mình bỏ đi còn những điều tốt thì mình phải phát triển lên” – ông Phạm Công Bằng, trưởng phường rối Tế Tiêu chia sẻ.
Bên cạnh những giá trị văn hóa, loại hình diễn xướng truyền thống này cũng phản ánh tín ngưỡng dân gian của dân làng qua những vở diễn tưởng nhớ công đức tiền nhân. Trong các vở rối, người ta bắt gặp các hình ảnh như tế lễ, rước kiệu, đánh đu, đấu vật, múa rồng, múa lân mừng hội làng. Các trò diễn vừa phản ánh các hoạt động hội hè, tín ngưỡng, vừa phảng phất niềm tin tâm linh về những vị thần, thánh linh thiêng.
Bí mật phía sau quy trình chế tác kỳ công
Quân rối (hay còn gọi là con rối) là một trong những thành tố quan trọng tạo nên sự khác biệt của nghệ thuật múa rối so với các loại hình sân khấu truyền thống khác. Tại phường rối cạn Tế Tiêu, hệ thống rối que chủ yếu gồm hai loại chính: rối tuồng và rối chèo.
Sự khác biệt giữa hai loại rối này thể hiện rõ nhất ở cấu trúc phần tay của con rối. Rối chèo có tay mềm làm bằng vải, phần đầu và bán thân được tạo hình bằng gỗ, giúp động tác mềm mại và linh hoạt. Trong khi đó, rối tuồng được chế tác hoàn toàn bằng gỗ ở cả tay và chân, tạo dáng vẻ chắc khỏe, phù hợp với tính ước lệ và đậm chất sân khấu tuồng.
Chất liệu gỗ dùng để làm rối chủ yếu là gỗ sung bởi đây là loại gỗ nhẹ, giá thành hợp lý, độ bền cao và giúp người biểu diễn cầm nắm con rối lâu mà không bị mỏi tay. Trong thời gian gần đây, nhằm thích ứng với điều kiện biểu diễn và nhu cầu đổi mới, phường rối cạn Tế Tiêu cũng đã thử nghiệm sử dụng thêm chất liệu cao su non trong chế tác quân rối.
Công đoạn làm nên con rối:
Nghệ nhân phải dành nhiều thời gian đẽo, gọt, miếng gỗ thô ráp hoặc miếng cao su non theo tạo hình của con rối
Nghệ nhân sử dụng một miếng giấy ráp để mài nhẵn bề mặt con rối
Lắp ghép các bộ phận của con rối và phục trang cho con rối
Bảo quản rối trên giá cao để tránh ẩm mốc
Sân khấu dựng hình, âm thanh dẫn chuyện
Sân khấu của phường rối Tế Tiêu thường được dựng ngoài trời hoặc trong nhà, phổ biến nhất là loại hình sân khấu ngoài trời gắn với không gian của làng mạc thôn quê. Sân khấu gồm có hai phần chính: phần trên là nơi các con rối xuất hiện, phần dưới là buồng trò - nơi có màn che kín để các nghệ nhân đứng biểu diễn.
Cấu trúc của sân khấu truyền thống khá đơn sơ với khung gỗ, rèm đỏ thêu họa tiết, phông hậu bằng mành tre vẽ phong cảnh làng quê hoặc cảnh trong các tích rối tuồng. Từ những năm 2000, các phông nền in trên bạt nhựa được sử dụng phổ biến cùng với hệ thống cột thép thay thế gỗ để dễ tháo lắp và sử dụng lâu bền hơn. Về tạo hình sân khấu, các nghệ nhân Tế Tiêu vẫn gìn giữ những dấu ấn dân gian với rèm vải đỏ thả xuống và buộc lại lưng chừng. Dòng chữ “Phường rối cạn Tế Tiêu” được viết theo lối mộc mạc, dân dã trên các tấm mẹt treo ngay phía trước sân khấu.
Hiện nay, Tế Tiêu duy trì hai dạng sân khấu chính là cố định và di động. Kích thước của các sân khấu được điều chỉnh linh hoạt theo từng không gian biểu diễn. Trong đó, sân khấu di động được lắp ghép từ các khung thép rỗng, giúp việc vận chuyển và dựng sân khấu khi lưu diễn trở nên thuận tiện và nhanh chóng. Trước đây khi cơ sở vật chất còn thiếu thốn, sân khấu múa rối thường diễn ra vào ban ngày để tận dụng ánh sáng tự nhiên. Hiện nay, khi khoa học công nghệ đã phát triển, việc biểu diễn vào buổi tối lại giúp các nghệ nhân tận dụng hiệu ứng ánh sáng, tạo không khí huyền ảo và làm tôn lên sự sinh động của sân khấu rối cạn.
Đối với nghệ thuật rối cạn, âm thanh đã trở thành yếu tố không thể tách rời, giúp tăng sức gợi hình và hỗ trợ cho khả năng biểu đạt vốn hạn chế của quân rối. Mỗi tích trò khi biểu diễn đều gắn với một hệ thống âm thanh riêng, giữ nhịp cho động tác và tạo không khí phù hợp với diễn biến câu chuyện. Bộ nhạc cụ quen thuộc của phường gồm trống, sáo, phách, đàn nhị, đàn tam, đàn nguyệt… Đáng chú ý, hầu hết các trò diễn của Phường rối Tế Tiêu đều có phần thuyết minh và lồng tiếng. Những câu văn, câu thơ và lời thoại trong kịch bản được xây dựng để thay cho việc con rối không thể thể hiện cảm xúc qua nét mặt. Qua đó, khán giả nắm bắt rõ hơn nội dung, tình huống và tầng nghĩa mà tiết mục muốn chuyển tải.
Nỗ lực thầm lặng giữ hồn rối Tế Tiêu
Phía sau không khí nhộn nhịp khi những con rối uyển chuyển trên sân khấu là một hành trình dài với những câu chuyện chưa kể của người nghệ nhân múa rối cạn. Để có được một buổi diễn trọn vẹn trong hơn một giờ, phường rối phải chuẩn bị từ nhiều giờ, nhiều ngày trước, thậm chí là vài tháng.
Công việc bắt đầu từ khâu dựng nội dung, phân vai, thiết kế tạo hình từng nhân vật rồi đến tập luyện liên tục để đảm bảo sự ăn ý của cả phường rối. Và: “Tốn công và tốn thời gian nhất vẫn là khâu tập luyện.”
Với rối cạn, sức nặng của một buổi diễn nằm ngay ở những cánh tay đang nâng con rối trên đầu. Khuất phía trong buồng trò chật hẹp, các nghệ nhân phải liên tục giơ cao tay để giữ và điều khiển rối bằng hệ thống que. Mọi cử động đều phải hoàn hảo, đảm bảo độ chính xác, khớp tuyệt đối giữa các nghệ nhân. Chỉ cần một động tác lệch nhịp, cả tiết mục có thể mất mạch ngay. Và để giữ được độ ăn ý ấy, bộ phận điều khiển rối, người hát và nhóm chơi nhạc phải phối hợp chặt chẽ từ đầu tới cuối - “Âm nhạc phải đúng nhịp thì con rối mới sống”. Đó là những nỗ lực âm thầm mà các nghệ nhân hiếm khi bộc lộ ra bên ngoài.
Nghệ nhân biểu diễn rất vất vả, mỏi mệt nhưng vẫn phải cố gắng để truyền được cái hồn của rối Tế Tiêu đến người xem
Những nỗ lực thầm lặng ấy càng đáng trân trọng hơn khi đặt trong bối cảnh nghề rối cạn Tế Tiêu đang phải đối mặt với nhiều thử thách. Là di sản văn hóa lâu đời của vùng đất Mỹ Đức, loại hình diễn xướng hơn 400 năm tuổi này lại đang loay hoay tìm chỗ đứng trong đời sống đương đại. Tại Tế Tiêu, những công việc từ phục dựng các tích trò cổ, sản xuất và làm mới đạo cụ cho đến cải tạo sân khấu đều đòi hỏi một nguồn kinh phí ổn định. Trong khi đó, nguồn thu nhập nghề mang lại cho các nghệ nhân vẫn còn bấp bênh. Họ chủ yếu đến với nghề vì niềm đam mê nghệ thuật và mong muốn giữ lửa nghề.
Khó khăn không dừng lại ở đó. Phường rối cũng đang phải gồng mình trước bài toán nhân lực - vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng mỗi buổi diễn. Nhân lực mỏng khiến phường rối thường xuyên rơi vào cảnh “chạy ngược chạy xuôi”:
“Phường rối chỉ có khoảng 18-20 nhân sự nhưng có những ngày sáng hai ca, chiều một ca diễn, chưa kể những lúc ốm đau,... thiếu người là lẽ đương nhiên. Do đó, vai nào cũng phải tập nhuần nhuyễn để còn thay thế cho nhau.” - ông Phạm Tiến Dũng - Phó phường rối Tế Tiêu tâm sự. Có những buổi các nhạc công lớn tuổi không thể di chuyển liên tục, buộc phường phải dùng nhạc thu sẵn thay cho nhạc sống. “Có nghệ nhân lớn tuổi ở xa nhưng vẫn cố gắng tới phường 3-4 buổi 1 tuần để chơi sáo. Tập xong 11 giờ đêm mới về, sáng mai vẫn đi làm.” - anh Phạm Quang Hữu chia sẻ. Có lẽ với phường rối, thách thức lớn nhất không chỉ nằm ở việc duy trì biểu diễn mà còn là câu hỏi: “Làm thế nào để đưa nghề phổ biến rộng rãi hơn?”
Tất cả những cống hiến lặng thầm đó chỉ để khi tấm màn sân khấu mở ra, khán giả sẽ được thấy trọn vẹn niềm vui, sự rực rỡ và sức sống bền bỉ của nghệ thuật múa rối Tế Tiêu
Để con rối còn kể chuyện mai sau
Trước nỗi băn khoăn làm thế nào để truyền "lửa nghề" cho thế hệ trẻ, ông Phạm Công Bằng - Trưởng phường rối Tế Tiêu chia sẻ: "Không thể áp đặt hay kêu gọi giới trẻ hãy thích rối, hãy giữ nghề đi, mà nên tạo cơ hội cho các bạn ấy được xem, được trải nghiệm. Quan trọng hơn là truyền tải được những giá trị như thế nào đến với người xem, đáp ứng được nhu cầu của khán giả ở nhiều địa phương thì mình sẽ có những cái để phát triển nghề làm rối này hơn nữa."
Hằng năm, phường rối đều duy trì các lớp truyền dạy nhằm đào tạo lực lượng kế cận. Cùng với đó, phường tích cực đưa rối Tế Tiêu đi lưu diễn ở nhiều địa phương và mở cửa đón các đoàn học sinh, du khách tới tham quan, trải nghiệm. Đặc biệt, khu bảo tồn rối cạn Tế Tiêu được xem như “trái tim” của công tác bảo tồn và phát huy di sản. Nơi đây lưu giữ các con rối cổ, đạo cụ, nhạc cụ cùng tư liệu liên quan đến lịch sử hình thành và phát triển của phường rối. Không chỉ đóng vai trò như một không gian trưng bày, khu bảo tồn còn là địa điểm sinh hoạt nghề, thực hành diễn xướng và truyền dạy trực tiếp cho thế hệ trẻ. Tại không gian ấy, mỗi con rối là một “nhân chứng” của nghề. Có những con đã theo nghệ nhân rong ruổi qua hàng chục sân khấu lớn nhỏ, gắn với nhiều vai diễn, nhiều tích trò.
Ảnh: Bộ TTVHDL
Trước đây, khi rối đã quá cũ hoặc hư hỏng, việc loại bỏ là điều khó tránh khỏi. Ngày nay, cùng với sự thay đổi trong nhận thức về giá trị di sản, những con rối ấy lại được nhìn nhận như những hiện vật quý. Song song với việc sưu tầm và bảo tồn nguyên trạng, phường rối còn tiến hành phục dựng các con rối cũ, tái tạo hình hài ban đầu dựa trên ký ức nghề và kinh nghiệm của các nghệ nhân cao niên. Từng con rối được gìn giữ, từng câu chuyện được kể lại trong không gian bảo tồn ấy chính là cách phường rối Tế Tiêu âm thầm tích lũy “vốn liếng” cho tương lai.
Thúy Quỳnh, Ngọc Anh
Nguồn VHPT : https://vanhoavaphattrien.vn/roi-can-te-tieu-danh-thuc-di-san-tram-nam-tuoi-a31297.html