Dừng chân trước Nghĩa trang Liệt sĩ Rừng Sác, chúng tôi lặng lẽ nghiêng mình trước tượng đài và thắp nén hương tưởng nhớ. Nơi đây quy tụ khoảng 2.000 ngôi mộ, trong đó có 890 ngôi mộ của các chiến sĩ Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác và còn hơn 500 liệt sĩ đến nay chưa tìm thấy hài cốt. Khói hương bảng lảng hòa trong ánh nắng chiều, gợi lên hình bóng những người con quả cảm đã ngã xuống cho Tổ quốc.
Trái tim tôi se lại khi tưởng tượng dưới những tán rừng ngập mặn kia vẫn còn đồng đội của các anh nằm lại. Nghe lời giới thiệu của hướng dẫn viên về dòng chữ khắc trên bia đá - “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” - lòng chúng tôi dâng trào niềm xúc động và khâm phục trước tinh thần quyết tử của các chiến sĩ đặc công năm xưa. Họ đã coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, miễn là Tổ quốc được trường tồn.
Nghĩa trang liệt sĩ Rừng Sác
Trong buổi giao lưu tại nhà truyền thống, đoàn chúng tôi được tận mắt chứng kiến nhiều hình ảnh, hiện vật và lắng nghe kể lại những chiến công oanh liệt của Đoàn 10 - Đặc công Rừng Sác. Chính tại vùng đất này, tháng 4/1966, Đoàn 10 được thành lập với mật danh T10 theo quyết định của Bộ Chỉ huy Miền, nhận nhiệm vụ bằng mọi cách bám trụ Rừng Sác, tập kích địch trên các dòng sông để tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng.
Biết rõ tầm quan trọng chiến lược của căn cứ Rừng Sác, quân đội Mỹ - ngụy đã điên cuồng trút xuống đây hơn 4 triệu lít chất hóa học và 2 triệu tấn bom đạn hòng hủy diệt lực lượng ta. Cả cánh rừng năm xưa bị chất độc làm cho cây cối chết rụi, mặt đất loang lổ hố bom, bộ đội chủ lực của ta hy sinh gần hết - vậy mà những người lính đặc công còn lại vẫn kiên cường bám trụ, tiếp tục chiến đấu.
Tôi lặng người khi nghe kể về những thử thách khủng khiếp mà các anh đã trải qua: có thời điểm suốt ba năm ròng không nhận được tiếp tế, gạo muối cạn kiệt, họ phải ăn rau rừng, bắt cua ốc cầm hơi; nước uống thì khan hiếm vì nước rừng ngập mặn mùi chát mặn không uống được, các anh phải chưng cất nước biển lấy nước ngọt mà dùng. Nguy hiểm luôn rình rập không chỉ từ bom đạn giặc thả ngày đêm, mà còn từ thú dữ nơi đầm lầy - đã có những chiến sĩ bị cá sấu tấn công hy sinh nơi đây. Những câu chuyện đó khiến chúng tôi nghẹn ngào khâm phục: giữa muôn trùng gian khổ, những người con đất Việt vẫn vững một niềm tin tất thắng, đem thân mình đổi lấy hòa bình cho Tổ quốc.
Bao chiến công hiển hách của Đoàn 10 dường như hiện lên sống động qua lời kể và hiện vật trước mắt chúng tôi. Tấm bảng vàng truyền thống của Đặc công Rừng Sác mở ra với chiến công chói lọi đầu tiên: trận đánh chìm tàu Baton Rouge Victory (tàu Victoria) ngày 23/8/1966. Đó là một tàu vận tải quân sự khổng lồ của Mỹ, trọng tải 10.000 tấn - niềm kiêu hãnh của hải quân Mỹ trên chiến trường sông nước Nam Bộ. Con tàu chở đầy vũ khí hạng nặng (hơn 100 xe tăng, thiết giáp, 2 máy bay trực thăng, 20 tấn lương thực, thực phẩm tiếp viện cho một sư đoàn Mỹ chuẩn bị hành quân) đã bị các chiến sĩ Đặc công Rừng Sác bí mật gài thủy lôi đánh chìm xuống lòng sông Lòng Tàu.
Nghe đến đây, trong đầu tôi như vang vọng tiếng nổ dữ dội và hình ảnh cột khói khổng lồ bốc lên từ giữa dòng sông năm nào. Trận đánh táo bạo ấy không chỉ hủy diệt khối lượng lớn phương tiện chiến tranh của địch, mà còn gieo rắc nỗi kinh hoàng cho quân Mỹ giữa nơi chúng từng ngạo nghễ coi là “an toàn”. Chiến công vang dội này đã trở thành một trang sử hào hùng, góp phần thay đổi cục diện chiến trường sông nước Nam Bộ những năm 1966. Đoàn chúng tôi ai nấy đều trầm trồ tự hào - chỉ với vài quả thủy lôi và lòng dũng cảm vô song, các chiến sĩ năm xưa đã làm nên kỳ tích khiến kẻ thù phải khiếp vía.
Tiếp nối bảng vàng chiến công là trận tập kích táo bạo vào Dinh Độc Lập ngay giữa Sài Gòn năm 1966. Thật khó tin nhưng có thật: Đặc công Rừng Sác đã bí mật vận chuyển và lắp đặt một khẩu pháo ĐKZ75 ngay sát Sài Gòn hoa lệ, nhằm thẳng vào cơ quan đầu não địch. Đúng vào lễ Quốc khánh chế độ Sài Gòn (sáng 04/11/1966), khi chính quyền tay sai đang phô trương thanh thế bằng một cuộc duyệt binh rầm rộ, các chiến sĩ đặc công bất ngờ nã pháo tới tấp vào khu vực Dinh Độc Lập. Những quả đạn ĐKZ xé gió lao đi từ trận địa giấu kín ở Thủ Đức và Nhà Bè, giáng thẳng vào lễ đài nơi tổng thống và quan chức địch đang dự lễ. Tiếng nổ chát chúa liên hồi vang lên giữa lòng đô thành, làm rung chuyên cả dinh thự, khiến quan quân địch hoảng loạn tột độ. Buổi lễ phải ngừng lại trong hỗn loạn, máy bay, xe tăng địch cuống cuồng phản kích vô ích.
Chỉ trong ít phút ngắn ngủi, chiến sĩ ta đã cho kẻ thù thấy rằng dù ở trung tâm sào huyệt, chúng cũng không hề an toàn. Câu chuyện này khiến chúng tôi vô cùng ngưỡng mộ sự gan dạ và mưu trí của các anh: dám đánh thẳng vào tim địch, biến ngày quốc khánh của địch thành “ngày quốc sỉ” đáng xấu hổ. Đó thực sự là một tiếng sấm sét oanh liệt vang trên nóc Dinh Độc Lập, làm tăng thêm khí thế cho quân và dân ta thời bấy giờ.
Đoàn chúng tôi nín lặng khi nghe kể về trận đánh kho bom Thành Tuy Hạ năm 1972 - một chiến công được ví như “kỳ tích” làm rung chuyển cả bàn đàm phán Paris. Thành Tuy Hạ là một căn cứ kho bom đạn khổng lồ của Mỹ - ngụy nằm sâu trong hậu cứ địch ở Nhơn Trạch (Đồng Nai), quy mô chỉ đứng sau tổng kho Long Bình. Kho bom này được bảo vệ kiên cố nhiều tầng: 14 lớp hàng rào dây thép gai, lô cốt ụ súng dày đặc, xung quanh quân địch tuần tra ngày đêm.
Vậy mà rạng sáng 12/12/1972, một tổ đặc công tinh nhuệ của Đoàn 10 đã bí mật chọc thủng mọi hàng rào bảo vệ, đột nhập đặt 16 khối thuốc nổ hẹn giờ giữa lòng kho bom rồi rút ra an toàn. Đúng 2 giờ 55 phút, màn đêm vùng ngoại ô Sài Gòn bừng sáng rực khi hàng loạt vụ nổ liên hoàn vang lên. Tiếng nổ dây chuyền của hàng ngàn quả bom đạn làm rung chuyển cả mặt đất, kéo dài như tiếng sấm dội không ngớt. Cả kho Thành Tuy Hạ chìm trong biển lửa ngút trời, bom đạn phát nổ dữ dội liên tục suốt ba ngày đêm liền.
Đứng trước bức tranh tái hiện cảnh kho bom nổ tung tại nhà truyền thống, tôi như nghe thấy âm vang rung trời chuyển đất của ngày định mệnh ấy, tưởng tượng những cột lửa đỏ rực cuồn cuộn bốc cao hàng chục mét. Kết quả thật phi thường: hơn 100.000 tấn bom đạn của địch đã bị phá hủy hoàn toàn. Trận đánh kinh thiên động địa này không chỉ giáng một đòn chí tử vào tiềm lực quân sự địch, mà còn tác động mạnh đến tinh thần của chúng trên bàn hội nghị. Ngày ấy, cả chính quyền Sài Gòn và giới chỉ huy Mỹ chắc hẳn bàng hoàng run sợ, còn quân ta và nhân dân vùng giải phóng thì vỡ òa trong niềm hân hoan, tin tưởng ngày toàn thắng đã không còn xa.
Công an TPHCM tổ chức Hành trình về nguồn, dâng hoa, dâng hương tưởng nhớ các Anh hùng Liệt sĩ tại Khu di tích chiến khu Rừng Sác, Cần Giờ
Chưa kịp lắng lại, chúng tôi lại thêm một lần sửng sốt tự hào trước câu chuyện về trận đánh kho xăng dầu Nhà Bè năm 1973. Kho xăng Nhà Bè khi đó là nơi cung ứng tới 60% nhu cầu xăng dầu quân sự cho địch ở miền Nam, được bảo vệ vô cùng nghiêm ngặt. Di tích thực địa còn mô phỏng lại quy mô kho xăng: rộng 14ha với 72 bồn chứa khổng lồ, bao quanh bởi 12 lớp hàng rào kẽm gai, tường bê-tông cao hơn 3m, giữa các lớp rào còn gài mìn và thả chó canh tuần tra. Thế nhưng vào lúc 0 giờ 35 phút đêm 03/12/1973, 8 chiến sĩ đặc công Rừng Sác bằng ý chí quả cảm và kỹ thuật điêu luyện đã lọt qua mọi lớp hàng rào, lặng lẽ thâm nhập đặt mìn khắp các bồn xăng. Chỉ vài phút sau, bầu trời Nhà Bè rung chuyển bởi một tiếng nổ lớn, rồi cả kho xăng bốc cháy ngùn ngụt. Ngọn lửa mỗi lúc một bốc cao, biến đêm thành ngày, khói đen mù mịt phủ cả một vùng sông nước.
Lửa từ kho xăng Nhà Bè cháy suốt 12 ngày đêm liền, thiêu rụi phần lớn kho dự trữ nhiên liệu của địch. Toàn bộ khu kho chìm trong biển lửa khổng lồ khiến quân Mỹ - ngụy hoàn toàn bất lực. Thiệt hại vật chất đối với địch được tính toán tương đương hàng chục triệu đôla Mỹ, còn thiệt hại về tinh thần thì không thể đo đếm: chúng hiểu rằng dù có rào kín bằng “tường sắt” thì vẫn không ngăn nổi những chiến sĩ cảm tử dám xuyên thủng mọi tuyến phòng thủ. Nghe đến đây, ai trong chúng tôi cũng trào dâng niềm tự hào vô hạn. Các anh - những “đứa con của Thần Sấm” nơi rừng ngập mặn - đã viết nên những trang sử chói lọi bằng chính máu và lòng quả cảm phi thường.
Khép lại những câu chuyện chiến công, phi thường, chúng tôi càng thêm thấm thía cái giá của hòa bình. Trong suốt 9 năm ròng chiến đấu (1966-1975), Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác đã đánh gần 600 trận lớn nhỏ, tiêu diệt hơn 6.200 tên địch, đánh chìm và đánh cháy gần 700 tàu thuyền chiến đấu và vận tải, bắn rơi 29 máy bay địch. Nhưng những chiến công oanh liệt đó cũng phải đánh đổi bằng sự hy sinh to lớn: hơn 890 cán bộ, chiến sĩ đặc công ưu tú đã ngã xuống, và đến nay vẫn còn khoảng 500 người chưa tìm được hài cốt. Quá nửa trong số họ mãi mãi nằm lại trong lòng đất mẹ Rừng Sác, thân thể các anh đã hòa vào sông nước quê hương để Tổ quốc được trọn vẹn độc lập, thống nhất. Nghe con số ấy, tôi thấy mắt mình cay xè. Các anh đã sống và chết ở tuổi đôi mươi cho lý tưởng “Tổ quốc quyết sinh”, để rồi vĩnh viễn gửi lại tuổi thanh xuân nơi bùn đất rừng đước. Nếu không có sự quyết tử của các anh thì làm sao có ngày 30/4 lịch sử cho chúng tôi được sống trong tự do, hòa bình hôm nay?
Chúng tôi rời Rừng Sác khi mặt trời đã ngả chiều, ánh hoàng hôn rọi qua tán rừng như màu cờ thắm soi lên những gương mặt lắng đọng suy tư. Giây phút cùng nhau đặt tay lên tấm bia tưởng niệm, lặng nhìn những di vật bình dị còn lưu giữ - nào chiếc ghe nhỏ, nào mảnh áo dù giặt ra vải màn ngụy trang, nào khẩu súng ĐKZ đã gỉ sét - tất cả khiến mỗi người chúng tôi thấy tim mình rung lên những nhịp đập tự hào và biết ơn khó tả.
Là thế hệ sinh ra trong thời bình, có lẽ trước đây chúng tôi chưa hiểu hết cái đói, cái khát, cái khốc liệt của thời chiến. Nhưng ngay lúc này, giữa không gian linh thiêng của chiến khu Rừng Sác, nghe tận tai những câu chuyện về mất mát hy sinh, tôi bỗng cảm nhận rõ rệt hơn bao giờ hết sự vĩ đại của những con người năm xưa. Trong làn khói hương quyện gió, tôi hình dung như thấy thấp thoáng bóng dáng những chiến sĩ đặc công năm cũ đang mỉm cười hiền hậu. Các anh dường như vẫn đứng đây, trong sắc áo đồng đội, lặng lẽ tiễn chúng tôi ra về.
Nắm một nắm đất rừng ngập mặn còn vương mùi bùn mặn, tôi thầm nhủ lòng mình phải sống sao cho xứng đáng với sự hy sinh cao cả đó. Chuyến về nguồn này đã gieo vào trái tim mỗi chúng tôi một ngọn lửa thiêng liêng - ngọn lửa yêu nước và tự hào dân tộc. 50 năm đã trôi qua kể từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhưng những chiến công và tinh thần quả cảm của Đặc công Rừng Sác vẫn vẹn nguyên giá trị, như một bản anh hùng ca bất tử truyền lại cho muôn đời sau. Tạm biệt Rừng Sác, chúng tôi mang theo hành trang là lòng biết ơn sâu sắc và niềm tự hào dâng trào về truyền thống anh hùng của dân tộc.
Mai này, mỗi khi đối mặt khó khăn, tôi sẽ nhớ về tấm gương các anh - nhớ rằng áp lực đời thường hôm nay nào sánh được với gian khổ hy sinh của cha anh ngày trước. Nghĩ đến đó, tôi càng tự nhủ phải cố gắng nhiều hơn, sống xứng đáng với sự đổi bằng máu xương của thế hệ đi trước. Rừng Sác - các Anh hùng Liệt sĩ - Tổ quốc: những lời thiêng ấy xin được khắc ghi mãi trong tâm trí chúng tôi, để từ đó tiếp thêm cho chúng tôi sức mạnh và niềm tin vững bước trên con đường phụng sự Tổ quốc, xây dựng và bảo vệ quê hương.
Hà Nội, tháng 4/2025
(Ghi lại từ Đoàn công tác dâng hương tưởng niệm tại Chiến khu Rừng Sác, huyện Cần Giờ trong dịp kỷ niệm ngày 30/4/2025).
Trung tướng, PGS-TS ĐỒNG ĐẠI LỘC