Khách hàng giao dịch tại một cửa hàng vàng ở Hà Nội. Ảnh Thanh Hải
Thị trường vàng bước vào giai đoạn nóng
Giá trị cao, khả năng cất giữ dễ dàng và truyền thống tích sản mạnh khiến vàng luôn là mặt hàng hấp dẫn giới buôn lậu. Phó Chi cục trưởng Chi cục Điều tra chống buôn lậu (Cục Hải quan, Bộ Tài chính) Phan Quốc Đông cho biết, đường biên giới dài với số cửa khẩu hạn chế luôn khiến vàng trở thành “điểm nóng”. Khi thị trường biến động mạnh hoặc chênh lệch giá trong nước – quốc tế nới rộng, rủi ro buôn lậu tăng lên rõ rệt.
Theo ông Phan Quốc Đông, công tác chống buôn lậu vàng đã được siết chặt với nhiều biện pháp nghiệp vụ, trong đó Kế hoạch 2088 và Chỉ thị ngày 4/11 xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm. Mặc dù số vụ bị phát hiện không nhiều, mỗi vụ thường có giá trị lớn, quy mô trung bình khoảng 10kg trên tuyến đường bộ. Khi mở rộng điều tra, lực lượng chức năng thường phát hiện nhiều đầu mối liên kết chặt chẽ.
Ông Phan Quốc Đông nhấn mạnh, để giảm sức ép buôn lậu, chính sách quản lý cần tiếp tục được rà soát, tham khảo kinh nghiệm quốc tế như đánh thuế vàng bán ra, chuẩn hóa tiêu chuẩn vàng trang sức và triển khai hiệu quả các quy định mới theo Nghị định 232 và Chỉ thị 35. Từ đầu năm, hải quan đã tiếp nhận 65 hồ sơ nhập khẩu trị giá 26 triệu USD và 22 hồ sơ xuất khẩu trị giá 4,2 tỷ USD, chủ yếu là vàng gia công. “Việc sớm ban hành hướng dẫn chi tiết là cần thiết để chính sách đi vào thực tế, tăng minh bạch và tạo thêm lựa chọn pháp lý cho người dân”, ông Phan Quốc Đông cho biết.
Ở góc độ thị trường, Phó Trưởng phòng Nghiệp vụ quản lý thị trường (Bộ Công Thương), Nguyễn Đức Lê cho rằng, nguồn cung vàng trang sức và vàng tiêu dùng vẫn đáp ứng tốt, nhưng nguồn vàng miếng lại hạn chế hơn nhiều, đặc biệt trong các đợt nhu cầu tăng đột biến. Tâm lý tích sản mạnh của người Việt khiến thị trường liên tục xuất hiện sóng giá.
Ông Nguyễn Đức Lê chỉ ra nhiều bất cập: thiếu cơ sở dữ liệu tập trung, kiểm định chất lượng còn hạn chế, vàng giả vẫn tồn tại, hóa đơn thiếu minh bạch, giao dịch tiền mặt phổ biến… Đáng lo ngại hơn là rủi ro mua bán vàng chợ đen không kiểm định, không hóa đơn, dễ mua phải vàng giả, giá cao và nguy cơ mất an toàn cá nhân. Hoạt động găm hàng, đầu cơ càng khiến thị trường méo mó, ảnh hưởng đến ổn định tiền tệ và niềm tin người dân.
TS Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, nhấn mạnh cần xác định rõ phạm vi vàng cần quản lý. Vàng miếng gắn với ổn định tài chính nên phải quản lý chặt, trong khi vàng trang sức mang tính tiêu dùng thì cần cơ chế phù hợp hơn. TS Cấn Văn Lực kiến nghị công khai dữ liệu tích trữ vàng, đồng thời chấm dứt quan hệ vay, mượn bằng vàng để giảm rủi ro hệ thống. Yếu tố cấp bách để thu hẹp chênh lệch giá trong nước, quốc tế là tăng nguồn cung hợp pháp: chuẩn hóa vàng miếng, giảm chi phí chế tác và tạo thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu.
Việt Nam đã có nền tảng pháp lý từ Nghị quyết 222 và Kết luận 203 nhưng cần làm rõ mô hình sàn vàng phù hợp: sàn độc lập, sở giao dịch hàng hóa hay trung tâm tài chính quốc tế tại TP Hồ Chí Minh.
Cơ hội và thách thức
Phó Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam Nguyễn Thế Hùng cho biết, chỉ khoảng 30-40% DN đầu tư bài bản về máy móc và quy trình kiểm soát đầu vào. Ông Nguyễn Thế Hùng đề nghị cần sớm thiết lập cơ chế quản lý minh bạch và Trung tâm điều phối thống nhất để thị trường vận hành ổn định. Việt Nam hoàn toàn có đủ năng lực xây dựng sàn giao dịch vàng hiện đại nếu đi đúng lộ trình. Theo ông Nguyễn Thế Hùng, giai đoạn đầu nên cho phép nhập khẩu vàng nguyên liệu có chứng nhận quốc tế, kèm điều kiện chặt chẽ về cơ sở vật chất, công nghệ và báo cáo định kỳ. Lợi ích lớn nhất của sàn vàng là mọi giao dịch đều được ghi nhận, giảm nguy cơ thao túng, đầu cơ và hình thành bong bóng giá.
TS Nguyễn Trí Hiếu nhận định việc tích trữ vàng tại nhà là lãng phí lớn đối với nền kinh tế. Lượng vàng trong dân tương đương 8% GDP nhưng không được đưa vào sản xuất, kinh doanh. Về dài hạn, Việt Nam cần hướng tới mô hình chứng khoán hóa vàng, nơi người dân nắm giữ tài sản dưới dạng chứng chỉ có giá trị tương đương vàng vật chất. Điều kiện tiên quyết là niềm tin: người dân phải tin chứng chỉ “an toàn như vàng thật”. Việt Nam hoàn toàn có thể huy động 300-500 tấn vàng trong dân nếu xây dựng được niềm tin, giảm độc quyền, mở rộng sự tham gia của DN và ngân hàng, bảo đảm lưu thông minh bạch và cung cấp các sản phẩm đầu tư an toàn.
Ông Nguyễn Minh Tuấn, CEO AFA Capital, lưu ý: cụm từ “sàn vàng” dễ khiến người dân liên tưởng tới các mô hình vàng phái sinh từng gây thiệt hại lớn cách đây 10 năm. Việt Nam cần phát triển sở giao dịch vàng vật chất quốc gia, một mô hình hoàn toàn khác, dựa trên giao dịch thật, có tiêu chuẩn quốc gia, cơ chế giao nhận rõ ràng và thanh toán thực. Lộ trình phát triển phải bắt đầu từ vàng nguyên liệu để giải quyết nguồn cung cho sản xuất. Khi đầu vào ổn định mới mở rộng sang vàng miếng, loại tài sản đầu tư phổ biến nhất.
Xây dựng sàn vàng không chỉ là yêu cầu cấp bách của thực tiễn mà còn là bước tiến chiến lược để đưa thị trường vàng vào khuôn khổ minh bạch, hiện đại và an toàn hơn. Muốn làm được, Việt Nam phải thiết kế mô hình đúng, lộ trình chuẩn và cơ chế giám sát chặt chẽ. Một sàn vàng minh bạch sẽ không chỉ giảm đầu cơ, loại bỏ giao dịch chợ đen mà còn tạo nền tảng dữ liệu đầy đủ để Nhà nước điều hành hiệu quả hơn, bảo vệ người dân và củng cố ổn định kinh tế vĩ mô trong dài hạn.
Một sàn vàng chuẩn mực sẽ giúp cơ quan quản lý theo dõi giao dịch theo thời gian thực, nắm được các dòng mua bán, biến động và rủi ro để kịp thời can thiệp bằng các công cụ như hạn mức giao dịch hay giới hạn vị thế. Đây cũng là nền tảng dữ liệu tập trung để kết nối thị trường vàng với chính sách tiền tệ, tạo điều kiện điều hành một lĩnh vực nhạy cảm với tỷ giá và lạm phát.
Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long
Nguyễn Đăng