Sáp nhập đại học không phải là đích đến mà là công cụ thể chế giúp hệ thống đào tạo tiệm cận các ưu tiên chiến lược quốc gia trong giai đoạn mới. Ảnh: N.K
Cơ cấu ngành học hiện nay mất cân đối nghiêm trọng khi phần lớn sinh viên tập trung vào kinh doanh, tài chính và công nghệ thông tin, trong khi các lĩnh vực nền tảng như nông - lâm - ngư nghiệp hay sản xuất công nghiệp lại thiếu trầm trọng nhân lực kỹ sư, kỹ thuật viên và nhà nghiên cứu đạt chuẩn. Ngược lại, một số ngành dịch vụ như tài chính - ngân hàng vẫn hút nhân lực nhờ thu nhập cao, nhưng lại khiến nguồn lực chất lượng bị dồn vào khu vực ít tạo giá trị lan tỏa cho nền kinh tế.
Trước thực trạng đó, chủ trương sáp nhập và tổ chức lại hệ thống đại học được đặt ra nhằm xóa bỏ tầng nấc trung gian, nâng cao hiệu quả quản trị và chất lượng đào tạo. Các trường sau sáp nhập sẽ trở thành đại học đa ngành có quy mô đủ lớn để dẫn dắt đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao tri thức. Nhờ vậy, cơ quan quản lý cũng có thể điều chỉnh chỉ tiêu tuyển sinh linh hoạt hơn theo mục tiêu ưu tiên quốc gia.
Điều phối tuyển sinh theo chiến lược quốc gia
Để việc sáp nhập không chỉ dừng ở tái tổ chức bộ máy mà trở thành đòn bẩy cải thiện cơ cấu nhân lực, cần xác định rõ các trụ cột phát triển quốc gia trong trung và dài hạn. Bối cảnh hiện nay thuận lợi cho Việt Nam khi bốn nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị đã định hình những hướng đi chiến lược: khoa học - công nghệ và chuyển đổi số, hội nhập quốc tế, đổi mới pháp luật và phát triển kinh tế tư nhân.
Sáp nhập giúp hình thành các đại học quy mô lớn, đủ năng lực phát triển và chuẩn hóa các ngành mũi nhọn như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, an toàn thông tin và công nghệ bán dẫn. Khi nguồn lực - từ phòng thí nghiệm, đội ngũ tiến sĩ đến hạ tầng công nghệ - được tập trung, chi phí đào tạo bình quân giảm, còn chất lượng đầu ra được nâng cao nhờ chuẩn chương trình và kiểm soát đồng bộ. Từ nền tảng đó, cơ quan quản lý có thể quy định chỉ tiêu tối thiểu cho các ngành công nghệ số, triển khai học bổng mục tiêu và đề tài nghiên cứu gắn với nhu cầu thực tiễn từ doanh nghiệp, địa phương - những điều kiện then chốt để hiện thực hóa Nghị quyết 57.
Sau sáp nhập, các trường đại học có thể mở rộng quy mô và thiết kế nhóm ngành ứng dụng cao, phục vụ trực tiếp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp và các cụm công nghiệp địa phương.
Tương tự, các khối ngành luật, chính sách công và quản trị công có thể tổ chức theo mô hình đại học đa ngành, tạo nền tảng đào tạo bài bản hơn cho đội ngũ làm việc trong lĩnh vực lập pháp, chính sách và tuân thủ pháp luật, cả ở khu vực công lẫn tư. Các học phần liên ngành giữa luật, kinh tế và công nghệ giúp sinh viên hiểu sâu hơn mối liên hệ giữa pháp lý và vận hành của nền kinh tế số.
Xây hệ sinh thái nhân lực bền vững gắn kết bộ tứ nghị quyết
Một hệ sinh thái nhân lực bền vững chỉ hoạt động hiệu quả khi nghiên cứu, đào tạo và sản xuất được kết nối theo một chu trình khép kín và dựa trên cơ sở dữ liệu. Khi nhà trường, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và chính quyền địa phương liên kết chặt chẽ, việc tuyển sinh hàng năm sẽ dựa vào dự báo việc làm thực tế thay vì cảm tính.
Khi các trường được sáp nhập theo mô hình đại học tinh hoa, đại học vùng và đại học địa phương, hệ thống giáo dục có điều kiện thống nhất chuẩn đầu ra về ngoại ngữ, kỹ năng liên văn hóa và tiêu chuẩn nghề nghiệp theo chuẩn quốc tế.
Khi các trường được sáp nhập theo mô hình đại học tinh hoa, đại học vùng và đại học địa phương, hệ thống giáo dục có điều kiện thống nhất chuẩn đầu ra về ngoại ngữ, kỹ năng liên văn hóa và tiêu chuẩn nghề nghiệp theo chuẩn quốc tế. Với quy mô đủ lớn, các trường có thể mở rộng hợp tác quốc tế, triển khai chương trình liên kết, hướng dẫn luận văn và tổ chức trao đổi học thuật với đối tác nước ngoài. Nhờ đó, khoảng cách giữa chuẩn đầu ra trong nước và nhu cầu thị trường lao động khu vực được rút ngắn, phù hợp với tinh thần Nghị quyết 59. Chỉ tiêu tuyển sinh có thể phân bổ linh hoạt cho các ngành gắn với xuất nhập khẩu lao động như công nghệ thông tin, logistics, điều dưỡng, du lịch và luật thương mại quốc tế. Đồng thời, tỷ lệ chương trình đạt kiểm định quốc tế sẽ tăng dần theo lộ trình cụ thể, củng cố niềm tin của người học và nhà tuyển dụng.
Khi các viện nghiên cứu được tích hợp vào hệ thống đại học, một chuỗi giá trị toàn diện từ nghiên cứu cơ bản đến ứng dụng và thương mại hóa sẽ được hình thành ngay trong nội bộ nhà trường. Việc gắn đề tài nghiên cứu với nhu cầu đặt hàng của doanh nghiệp hoặc nhiệm vụ của địa phương giúp các trường có cơ sở thực tiễn để điều chỉnh chỉ tiêu tuyển sinh theo nhu cầu thực tế của từng lĩnh vực trọng điểm. Các mô hình trung tâm sáng tạo, vườn ươm đổi mới và phòng thí nghiệm liên ngành sẽ phát huy hiệu quả tối đa khi hội tụ đủ thiết bị, nhân lực và nguồn lực tài chính. Nhờ đó, các nhóm nghiên cứu mạnh có thể dẫn dắt chương trình sau đại học, đào tạo giảng viên trẻ và nâng cao chất lượng công bố theo đúng định hướng ưu tiên của từng ngành.
Kích hoạt đòn bẩy chính sách cho đào tạo nhân lực
Khi mô hình tổ chức mới vận hành ổn định, có thể đồng thời kích hoạt ba đòn bẩy chính sách để định hướng người học vào các ngành ưu tiên cho phát triển dài hạn. Thứ nhất, quy định chỉ tiêu tối thiểu cho các nhóm ngành trọng điểm như công nghệ số, bán dẫn, luật - tuân thủ pháp lý, logistics và kỹ thuật sản xuất, với lộ trình rõ ràng qua từng năm. Thứ hai, triển khai học bổng có điều kiện và gói hỗ trợ tài chính đi kèm cam kết làm việc tại khu công nghiệp, khu công nghệ cao hoặc cơ quan công quyền, nhằm tạo nguồn nhân lực ổn định cho các lĩnh vực còn thiếu hụt. Thứ ba, liên thông dữ liệu tuyển sinh, thực tập và việc làm giữa trường, doanh nghiệp và cơ quan quản lý, giúp việc điều chỉnh chỉ tiêu bám sát tín hiệu thực tế của thị trường lao động.
Sáp nhập đại học không phải là đích đến mà là công cụ thể chế giúp hệ thống đào tạo tiệm cận các ưu tiên chiến lược quốc gia trong giai đoạn mới. Mục tiêu là dịch chuyển nguồn nhân lực khỏi những lĩnh vực đã bão hòa, bổ sung cho các ngành còn thiếu nhưng giữ vai trò then chốt đối với năng suất và năng lực cạnh tranh. Khi điều kiện đó được đáp ứng, sáp nhập sẽ trở thành bản lề chuyển hóa quá trình tuyển sinh từ cuộc đua điểm số thành cơ chế phân bổ nguồn nhân lực phục vụ phát triển dài hạn của đất nước.
(*) CFA
Lê Hoài Ân (*)