Sạt lở nhà, đường ở miền núi phía Bắc: Khuyến cáo của chuyên gia đến chính quyền và người dân

Sạt lở nhà, đường ở miền núi phía Bắc: Khuyến cáo của chuyên gia đến chính quyền và người dân
4 giờ trướcBài gốc
- Thưa Tiến sĩ, nguyên nhân chính nào dẫn tới tình trạng sạt lở đất, lũ quét và ngập lụt gây thiệt hại nặng nề cho nhà cửa và đường giao thông ở miền núi phía Bắc trong các đợt bão lũ vừa qua?
Vùng núi cao phía Bắc có địa hình bị chia cắt rất mạnh, nền đất đá bị phong hóa sâu, hệ thống sông suối dày đặc và có độ dốc lớn. Đặc biệt, vào mùa mưa, đất đá ngậm nước, mất liên kết, rất dễ trượt lở, nhất là khi có hoạt động của con người tác động vào sườn dốc. Trong tháng 10 vừa qua, mưa lớn kéo dài nhiều ngày đã khiến nhiều nơi ở khu vực này vốn đã không ổn định nay bị phá vỡ hoàn toàn cân bằng, gây ra các vụ sạt lở đất đá, lũ bùn đất đá, lũ lụt nghiêm trọng.
Tuy nhiên, điều đáng nói là các tai biến này hoàn toàn có thể lường trước được nếu có đánh giá đầy đủ về địa chất, thổ nhưỡng và lịch sử trượt lở, lượng mưa và tần suất mưa của khu vực. Đây không phải là lần đầu Tây Bắc xảy ra sạt lở đất, lũ bùn đất đá, lũ quét, và chắc chắn cũng chưa phải là lần cuối nếu không có thay đổi căn cơ.
Tiến sĩ Trịnh Hải Sơn, Viện Trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Bộ Nông nghiệp và Môi trường.
Bên cạnh yếu tố địa chất, con người cũng gây các tác động đối với tình trạng sạt lở đất đá, lũ bùn đất đá. Con người có thể tác động làm thay đổi cấu trúc địa hình tự nhiên, từ đó làm gia tăng nguy cơ sạt lở đất đá, lũ bùn đất đá, lũ quét... Một số hoạt động như chặt phá rừng, mở đường, khai thác khoáng sản hay xây dựng nhà cửa trên địa hình dốc nếu không được đánh giá kỹ lưỡng về điều kiện địa chất, địa mạo, thổ nhưỡng có thể vô tình tạo ra những điểm yếu, tiềm ẩn rủi ro sạt lở đất, lũ bùn đá, lũ quét, ngập lụt..
Bên cạnh đó, việc bố trí dân cư ở những khu vực có địa hình phức tạp, như ven suối, chân taluy hay khu vực từng ghi nhận dấu hiệu nứt đất, sạt lở đất đá, lũ bùn đá, lũ quét ... đôi khi chưa được tiếp cận đầy đủ thông tin cảnh báo về địa chất. Có nơi, các công trình công cộng như trường học hay trạm y tế vẫn đang hiện diện trong vùng nguy cơ mà chưa có điều kiện di dời hoặc gia cố. Đây là thực trạng đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa công tác quy hoạch, điều tra địa chất và quản lý phát triển hạ tầng, nhằm bảo đảm an toàn lâu dài cho người dân.
- Người dân ở khu vực sườn núi, ven suối nên xây dựng, cải tạo nhà ở theo nguyên tắc nào để giảm nguy cơ sập đổ khi xảy ra sạt lở?
Chúng ta cần phải thay đổi từ “phản ứng sau thiên tai” sang “quản lý rủi ro thiên tai chủ động”. Điều đó có nghĩa là trước khi quy hoạch dân cư, xây dựng công trình hay phát triển kinh tế ở miền núi, phải có bản đồ phân vùng nguy cơ sạt lở đất đá, lũ bùn đất đá, lũ lụt chi tiết.
Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản hiện đang triển khai xây dựng bản đồ nguy cơ sạt lở đất đá cho các tỉnh miền núi phía Bắc. Bản đồ này tích hợp dữ liệu địa chất, địa mạo, độ dốc, lượng mưa, sử dụng đất và mật độ dân cư, cho phép chính quyền địa phương nhận biết khu vực nào có thể xây dựng, khu nào cần cảnh báo hoặc cấm tuyệt đối.
- Về quy hoạch lâu dài, theo ông, cần di dời và bố trí tái định cư ra sao để người dân sống an toàn hơn trước thiên tai?
Để đạt được mục tiêu này, ngành địa chất không thể đứng ngoài quy hoạch. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và dân cư miền núi tăng nhanh, ngành địa chất cần chủ động tham gia vào chiến lược phát triển, từ quy hoạch sử dụng đất, định hướng giao thông, lựa chọn vùng phát triển kinh tế đến xây dựng hạ tầng an toàn.
Điều quan trọng là phải tích hợp dữ liệu địa chất - môi trường gồm các loại bản đồ nguy cơ sạt lở và bản đồ vị trí các khu vực lựa chọn khu vực an toàn vào quy trình ra quyết định di dời và bố trí tái định cư của các cấp chính quyền. Nếu không, rủi ro sạt lở đất đá, lũ bùn đất đá sẽ tiếp tục tái diễn như một vòng lặp không hồi kết.
Một căn nhà kiên cố bị đổ tại xã Tú Lệ, tỉnh Lào Cai trong bão số 10 vừa qua.
- Với hệ thống đường sá miền núi, cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật, vật liệu và thiết kế nào để hạn chế sạt lở, chia cắt giao thông?
Giải pháp công trình rất quan trọng, nhưng không thể triển khai đơn lẻ. Ví dụ, việc xây dựng tường chắn đá, rọ thép, rãnh thoát nước là cần thiết tại các điểm xung yếu. Tuy nhiên, nếu không gắn với phục hồi rừng đầu nguồn, trồng cây bám đất, quản lý nước mặt hợp lý thì chỉ là giải pháp tạm thời.
Giải pháp sinh thái - kỹ thuật - cộng đồng phải đi cùng nhau. Người dân cần được tập huấn cách nhận diện dấu hiệu sạt lở đất đá (nứt nền nhà, đất mềm, cây nghiêng), trong khi đó chính quyền cần giám sát việc thi công trên địa hình dốc, còn các nhà khoa học phải đồng hành trong tư vấn kỹ thuật – từ khảo sát đến xây dựng mô hình cảnh báo.
- Ông có khuyến nghị gì cụ thể cho chính quyền địa phương và người dân Tây Bắc trong việc phối hợp xây dựng công trình bền vững, an toàn?
Sạt lở đất đá, lũ bùn đất đá, lũ lụt không còn là điều bất ngờ. Nó là hệ quả của một quá trình tích tụ và có thể nhận biết, phòng ngừa được. Vì vậy, các địa phương cần rà soát lại toàn bộ khu dân cư, trường học, trụ sở nằm trong vùng nguy cơ sạt lở đất đá, lũ bùn đất đá, lũ lụt, sụt lún đất để có lộ trình di dời hoặc gia cố; lồng ghép bản đồ nguy cơ sạt lở, lũ bùn đất đá, lũ lụt vào quy hoạch tổng thể phát triển; tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về dấu hiệu cảnh báo sớm; đầu tư cho hệ thống quan trắc và cảnh báo sạt lở đất đá, lũ bùn đất đá, lũ lụt theo thời gian thực bằng công nghệ hiện đại.
Chúng tôi luôn sẵn sàng phối hợp để cùng các địa phương khu vực miền núi phía Bắc xây dựng mô hình quản lý rủi ro sạt lở đất, lũ bùn đất đá, lũ quét, lũ lụt phù hợp, khoa học và hiệu quả.
Xin cảm ơn ông!
Sỹ Lực
Nguồn Tiền Phong : https://tienphong.vn/sat-lo-nha-duong-o-mien-nui-phia-bac-khuyen-cao-cua-chuyen-gia-den-chinh-quyen-va-nguoi-dan-post1786630.tpo