Cần tạo ra một "sân chơi" và hình thành thị trường đủ hấp dẫn cho sản phẩm gắn nhãn sinh thái. (Ảnh minh họa. Nguồn: TTXVN)
Nhấn mạnh sau hơn 20 năm triển khai quy định về nhãn sinh thái nhằm cải thiện môi trường, kết quả áp dụng vẫn còn rất khiêm tốn, nhiều ý kiến chuyên gia cho rằng cần có một nhóm giải pháp tổng thể để phát triển thị trường sản phẩm gắn nhãn sinh thái, dựa trên hai hướng song song vừa kích cầu, vừa hỗ trợ phát triển nguồn cung.
Trong đó, Nhà nước cần hoàn thiện thể chế, tạo ra một "sân chơi" và hình thành thị trường đủ hấp dẫn cho sản phẩm gắn nhãn sinh thái.
Thiếu nguồn lực, chính sách ưu đãi chưa rõ
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đang gây ra những hệ lụy ngày càng nặng nề, quy định về nhãn sinh thái cho sản phẩm, dịch vụ được xem như một giải pháp thiết thực nhằm khuyến khích sản xuất và tiêu dùng bền vững. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy công cụ này giúp doanh nghiệp chuyển đổi từ sản phẩm gây ô nhiễm sang sản phẩm xanh đồng thời hỗ trợ người tiêu dùng tiếp cận hàng hóa thân thiện, bảo vệ sức khỏe.
Với tầm quan trọng đó, ông Lê Hoài Nam - Phó Cục trưởng Cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường), cho biết quy định pháp lý về nhãn xanh đã được đưa vào Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, năm 2014; và tiếp tục được hoàn thiện trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
Trước đó, năm 2009, chương trình thí điểm nhãn sinh thái đã được triển khai, tập trung vào hai nhóm sản phẩm, gồm: Sản phẩm được chứng nhận nhãn xanh Việt Nam và túi nilon thân thiện môi trường. Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã ban hành tiêu chí cụ thể cho các nhóm này.
Thời gian qua, một số doanh nghiệp cũng đã được cấp chứng nhận nhưng số lượng còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực doanh nghiệp trong nước còn yếu, thiếu nguồn lực đổi mới công nghệ, chính sách ưu đãi chưa rõ ràng, nhiều quy định mới dừng ở luật và thiếu văn bản hướng dẫn.
"Chẳng hạn luật quy định thuế bảo vệ môi trường là 40.000 đồng/kg đối với túi nilon khó phân hủy, nhằm hạn chế sản xuất và khuyến khích túi sinh học. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều cơ sở nhỏ lẻ vẫn trốn thuế và tiếp tục sản xuất loại túi này," Phó Cục trưởng Cục Môi trường nêu dẫn chứng.
Ông Nguyễn Trung Thắng - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường, cũng nhấn mạnh chuyển đổi xanh là xu thế tất yếu, nhưng kết quả áp dụng nhãn sinh thái sau hơn 20 năm vẫn khiêm tốn.
Nêu dẫn chứng, ông Thắng cho biết năm 2017, Việt Nam có 17 tiêu chí nhãn xanh (trong đó 7 tiêu chí áp dụng cho 112 sản phẩm). Trong giai đoạn 2024 - 2025, chỉ thêm 13 sản phẩm được chứng nhận. Mặc dù người tiêu dùng trong nước quan tâm nhiều hơn đến an toàn thực phẩm, thế nhưng rào cản công nghệ, chi phí và thủ tục hành chính vẫn tiếp tục là trở ngại lớn.
Phó Giáo sư-Tiến sỹ Nguyễn Thế Chinh, nghiên cứu viên cao cấp của Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu, cũng cho rằng việc triển khai nhãn sinh thái hiện vẫn còn nhiều khía cạnh cần bàn. Trước hết là vai trò của doanh nghiệp - chủ thể chính trong việc thực hiện nhãn sinh thái.
Theo Phó Giáo sư-Tiến sỹ Nguyễn Thế Chinh, để áp dụng nhãn sinh thái, doanh nghiệp cần có khả năng đáp ứng các tiêu chí, quy định mà nhãn sinh thái đặt ra, nhưng việc chuyển đổi từ sản phẩm chưa có nhãn sang sản phẩm được dán nhãn là cả một quá trình dài và tốn kém.
Vấn đề thứ hai là liên quan đến thị trường tiêu dùng. Ông Chinh cho rằng cần phải có định hướng trong việc quảng bá, xây dựng hình ảnh sản phẩm để thu hút người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm dán nhãn sinh thái.
Phát triển sản phẩm gắn nhãn sinh thái. (Ảnh minh họa. Nguồn: Vietnam+)
Yếu tố thứ ba theo ông Chinh là chính sách trong nước thường có độ trễ. "Đơn cử, sau khi Luật Bảo vệ Môi trường được ban hành cùng với các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính trong định hướng chuyển đổi xanh, vẫn còn nhiều điểm phải điều chỉnh," ông Chinh băn khoăn.
Cần “sân chơi” hấp dẫn, tăng chuyển đổi xanh
Đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường, ông Lê Hoài Nam - Phó Cục trưởng Cục Môi trường, nhấn mạnh hiện nay ở trong nước đã có ba nhóm chính sách lớn (gồm chính sách về quản lý hành chính; chính sách kinh tế bao gồm các khoản thuế, phí và ưu đãi tài chính; và chính sách phát triển thị trường) nhằm tháo gỡ rào cản, khuyến khích doanh nghiệp tham gia sản xuất và giúp người tiêu dùng tiếp cận sản phẩm thân thiện môi trường.
Tuy nhiên, theo ông Nam, hiện quy mô thị trường sản phẩm nhãn sinh thái tại Việt Nam còn rất nhỏ. Trước đây có khoảng 100 loại sản phẩm được gắn nhãn, nhưng sau đó chỉ có thêm một số doanh nghiệp tham gia.
Trong khi đó, tại các quốc gia phát triển, ví dụ như Nhật Bản, năm 2016, tổng giá trị thị trường các sản phẩm, dịch vụ được nước này gắn nhãn sinh thái đã vượt 44 tỷ USD, và hiện nay con số sản phẩm còn lớn hơn nhiều.
“So sánh trên cho thấy thị trường của Việt Nam vẫn còn quá nhỏ bé, đòi hỏi những giải pháp và chính sách thực tế, hiệu quả hơn,” ông Nam trăn trở.
Trước thực tế trên, Phó Giáo sư-Tiến sỹ Nguyễn Thế Chinh khuyến nghị trong thời gian tới, Việt Nam cần có những chính sách đặc thù, mang tính thời điểm để thúc đẩy phát triển sản phẩm xanh, như các chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xanh.
“Trên thực tế, việc tạo lập thị trường cho sản phẩm xanh vẫn còn nhiều khó khăn, chưa hình thành được một thị trường nền tảng. Vì thế, cần có những giải pháp đột phá để thu hút người tiêu dùng, như tăng cường truyền thông, quảng bá sản phẩm xanh,” ông Chinh nhấn mạnh.
Ngoài ra, để áp dụng nhãn sinh thái hiệu quả cần phải hoàn thiện hành lang pháp lý, chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và tiêu dùng sản phẩm xanh, như các quy định về môi trường, tiêu chuẩn sản phẩm xanh.
Phó Giáo sư-Tiến sỹ Nguyễn Thế Chinh cũng nhấn mạnh vai trò của nhà nước là rất quan trọng, cần đi đầu trong việc sử dụng, mua sắm sản phẩm xanh, từ đó tạo động lực cho thị trường phát triển.
Đặc biệt, để tạo niềm tin đối với người tiêu dùng, ông Chinh cho rằng cần phải tăng cường giám sát, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm như sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng nhái để bảo vệ thị trường sản phẩm xanh.
Ông Nguyễn Trung Thắng - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, cũng khuyến nghị nhà nước cần có một nhóm giải pháp tổng thể để phát triển thị trường sản phẩm gắn nhãn sinh thái, dựa trên hai hướng song song vừa kích cầu, vừa hỗ trợ phát triển nguồn cung.
Đặc biệt, theo ông Thắng, nhà nước cần tập trung hoàn thiện thể chế, tạo ra một “sân chơi” và hình thành thị trường đủ hấp dẫn cho sản phẩm gắn nhãn sinh thái; xây dựng các nhóm tiêu chí phù hợp với từng ngành hàng, gắn lộ trình chuyển đổi xanh và nhu cầu của người tiêu dùng trong nước, để doanh nghiệp dễ áp dụng, người mua dễ nhận biết.
“Ngoài ra, tôi đề nghị cải cách thủ tục hành chính để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các dự án hỗ trợ, cũng như các nguồn vốn vay ưu đãi cho phát triển xanh. Ngoài ra cũng nên cân nhắc chuyển giao vai trò cấp chứng nhận nhãn sinh thái cho các tổ chức độc lập, thay vì để cơ quan nhà nước trực tiếp thực hiện,” ông Thắng nhấn mạnh./.
(Vietnam+)