Chiến sĩ trẻ ở chiến trường Quảng Trị năm 1972. Ảnh tư liệu
Những người viết nên huyền thoại
Những ai đã từng một lần được đặt chân đến Quảng Trị, đến bờ Nam sông Thạch Hãn, nơi có bến thả hoa sẽ được đọc bài thơ “Đò xuôi Thạch Hãn” trên bia đá:
Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm
Đây là bài thơ được sáng tác bởi nhà thơ Lê Bá Dương, cũng là chiến sĩ quân đội trực tiếp chiến đấu tại Thành cổ Quảng Trị trong trận chiến rực lửa mùa hè năm 1972.
Cuộc tiến công giải phóng Quảng Trị và sự kiện 81 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị năm 1972 là sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, mở đường cho đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Chỉ tính riêng trong 81 ngày đêm ngắn ngủi giao tranh xảy ra ở Quảng Trị, báo chí nước ngoài đã thống kê, Thành cổ Quảng Trị đã hứng chịu 328.000 tấn bom đạn, tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Hirosima và Nagasaki hồi Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây không những được coi là trận chiến ác liệt nhất của chiến tranh Việt Nam mà còn được coi là trận chiến có tính chiến lược bậc nhất của toàn cuộc chiến, góp mặt trong số những trận đánh làm thay đổi cục diện của chiến tranh Việt Nam.
Chiến trường ác liệt này là minh chứng rõ nét nhất cho sự đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Để bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, hàng vạn Anh hùng, Liệt sĩ đã anh dũng hy sinh, đem theo tuổi thanh xuân, ước mơ, hoài bão hóa thân vào đất mẹ quê hương.
Đại tá Nguyễn Văn Hợi - Trưởng ban liên lạc Tiểu đoàn K3 Tam Đảo chia sẻ tại sự kiện ra mắt phim "Mưa đỏ"
Trong buổi ra mắt phim điện ảnh “Mưa đỏ” lấy cảm hứng về 81 ngày đêm chiến đấu anh dũng, kiên cường bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972, Đại tá Nguyễn Văn Hợi - Trưởng ban liên lạc Tiểu đoàn K3 Tam Đảo cho biết: "Mưa đỏ đã làm sống lại trong tôi 81 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị. Đồng đội tôi nằm ở Thành cổ có lẽ cũng đang mỉm cười mãn nguyện. Không ngờ sau 50 năm, lại có thể được xem một bộ phim về cuộc chiến ấy. Chúng tôi là những người trong cuộc mà cũng không thể cầm nổi nước mắt".
Ông cho biết thêm, Thành cổ Quảng Trị mỗi chiều rộng 500m nhưng Tiểu đoàn của ông nằm lại hơn 1.000 người. “Thành cổ rộng nhưng đồng đội tôi nằm chật”, Đại tá Nguyễn Văn Hợi chia sẻ.
Cựu chiến binh Nguyễn Thế Dĩnh là một trong những chiến sĩ tham gia bảo vệ Thành cổ Quảng Trị
Cựu chiến binh Nguyễn Thế Dĩnh (72 tuổi, trú tại phường Đông Hà, tỉnh Quảng Trị), từng tham gia bảo vệ Thành cổ Quảng Trị hơn 50 năm trước chia sẻ, ông nhập ngũ vào tháng 4/1972, sau đó làm việc tại Đại đội biệt động của Tỉnh đội Quảng Trị. Sau khi Quảng Trị được giải phóng, ông được đưa vào lực lượng vũ trang để huấn luyện đến tháng 6/1972 thì cùng tiểu đội của mình nhận nhiệm vụ tiếp quản hầm của Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 95.
Ông Nguyễn Thế Dĩnh cho biết thêm, đơn vị ông có đến 80% chiến sĩ quê ở miền Trung như Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, số còn lại là sinh viên ở Hà Nội. “Chúng tôi con nhà nông nên đã quen với cày cuốc nhưng với những đồng đội ở ngoài kia khi vào đây họ vẫn còn bỡ ngỡ”, ông Nguyễn Thế Dĩnh kể. Thế nhưng họ đã cùng dìu dắt nhau trong những tháng ngày kháng chiến.
Tham gia chiến đấu ở Tiểu đoàn 5, ông Nguyễn Thế Dĩnh cùng đồng đội từng đẩy lùi được một tiểu đội thủy quân lục chiến của địch. Khoảnh khắc giành chiến thắng không gì vui sướng hơn nhưng đằng sau đó là là bao đau thương bởi ông tận mắt chứng kiến đồng đội mình ngã xuống ở độ tuổi 20.
"Tôi đã chứng kiến những đồng đội hy sinh anh dũng, những lần càn quét ác liệt của địch nên sau khi xem bộ phim tôi mong rằng đất nước chúng ta từ nay về sau sẽ mãi hòa bình, độc lập, ấm no, những hình ảnh về thời gian đó không lặp lại và sẽ không còn một “Mưa đỏ” nào trên quê hương nữa", ông Nguyễn Thế Dĩnh chia sẻ.
Đồng hành trong chiến đấu, tìm đồng đội khi hòa bình
Năm 18 tuổi, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, ông Nguyễn Xuân Tứ (SN 1967, phường Hồng Hà, TP Hà Nội) lên đường nhập ngũ tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đứng giữa vô vàn khó khăn, gian khổ, sự sống và cái chết gần kề nhưng ông và đồng đội của mình, trong đó có nhiều người con ưu tú của Thủ đô Hà Nội vẫn giữ khí phách kiên trung, “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Ông Nguyễn Xuân Tứ chia sẻ bức ảnh về hành trình tìm đồng đội
Ông Nguyễn Xuân Tứ nhập ngũ vào Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 209, Sư đoàn 312. Năm 1968, trước bối cảnh miền Nam diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, quân ta nổi dậy, tiến công vào các cứ điểm của Mỹ, Ngụy, đơn vị ông Tứ khi đó đang hành quân và ăn Tết ở Hòa Bình thì nhận được nhiệm vụ gấp của cấp trên là chi viện cho chiến trường miền Nam.
Nhiệm vụ của Trung đoàn 209 khi đó là đánh chiếm sân bay Kleng, làm bàn đạp tấn công sang phía đông thị xã Kon Tum nhằm chia cắt sự chi viện của đế quốc Mỹ bằng đường hàng không. Để tiếp cận được sân bay Kleng, đơn vị buộc phải vượt qua điểm cao M2 của dãy núi Chư Tan Kra có điểm cao 995 so với mực nước biển, dốc đứng, cây cối rậm rạp, nhiều tầng.
Trong quá trình hành quân và chiến đấu, ông Nguyễn Xuân Tứ và các đồng đội đã cùng nhau trải qua vô vàn khó khăn, nguy hiểm. Với tinh thần dũng cảm, ý chí quyết tâm đánh giặc, đơn vị của ông đã đưa địch vào thế bị động, thiệt hại nặng, phải co cụm trên đỉnh Chư Tan Kra cầu cứu chi viện.
Trận đánh kết thúc vào 7h sáng ngày 26/3/1968, khoảng hơn 200 lính Mỹ bị tiêu diệt. Tiểu đoàn 7 tiêu diệt gần hết một đại đội bộ binh và phá hủy phần lớn trận địa pháo của địch. Thế nhưng hơn 200 chiến sĩ bộ đội ta đã anh dũng hy sinh. “Tôi nhớ, chúng tôi đã hẹn đồng chí, đồng đội của mình rằng sau trận đánh về ăn cơm nhưng cuối cùng các đồng chí, đồng đội của tôi đã không trở về, đau xót vô cùng”, ông Nguyễn Xuân Tứ kể.
Trong chiến dịch này, ông Tứ bị thương ở đùi. Vết thương vừa lành, ông lại cùng đồng đội tham gia chiến đấu tại chiến trường miền Đông Nam Bộ. Năm 1972, đơn vị ông tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ, 150 ngày đêm chốt chặn Đường 13, thuộc địa bàn Tàu Ô, xóm Ruộng, huyện Chơn Thành (Bình Phước). Tại đây, sau một trận đánh không cân sức giữa ta và địch, ông Tứ bị thương nặng ở cánh tay, bả vai,… Năm 1973, ông được chuyển ra Bắc, sau đó về công tác tại Công ty Bao bì xuất nhập khẩu thuộc Bộ Ngoại thương. Năm 1993, ông nghỉ hưu.
Trở về đời thường, ông Tứ luôn đau đáu niềm mong ước đi tìm đồng đội đã ngã xuống trên đỉnh Chư Tan Kra. Cơ duyên đến với ông Tứ khi một số đồng đội của đơn vị năm xưa, gồm các cựu chiến binh Hồ Đại Đồng, Phạm Văn Chúc, Phạm Minh Ngọc, Nguyễn Văn Vĩnh (đều sinh sống tại Hà Nội) cùng chung mong ước đi tìm những đồng đội đã hy sinh. 5 cựu chiến binh thống nhất thành lập tổ tìm kiếm đồng đội do ông Hồ Đại Đồng làm tổ trưởng. Các thành viên tham gia tự nguyện đóng góp tiền, công sức trong quá trình tìm kiếm.
Không chỉ thu thập thông tin từ đồng đội cũ, tổ tìm kiếm đồng đội của 5 cựu chiến binh còn tìm hiểu, thu thập thông tin qua mạng xã hội. Cuối năm 2009, đầu năm 2010, tổ tìm kiếm liên lạc được với một số cựu quân nhân Mỹ từng tham gia trận đánh ở điểm cao M2, Chư Tan Kra. Họ đã cung cấp hình ảnh, bản đồ trận đánh, sơ đồ mộ chôn tập thể chiến sĩ của ta tại tỉnh Kon Tum.
Có được tư liệu quý, ông Tứ cùng các cựu chiến binh trong tổ tìm kiếm lại tiếp tục hành trình vào Tây Nguyên. Họ được cơ quan chức năng tạo điều kiện, hỗ trợ. Với sự cố gắng không ngừng nghỉ, tổ tìm kiếm đã quy tập được hơn 200 hài cốt liệt sĩ. Sau khi giám định, những hài cốt xác định được danh tính, đều được tổ tìm kiếm liên lạc với người thân đưa về quê hương an táng. Những hài cốt liệt sĩ chưa xác định được danh tính được quy tập về Nghĩa trang liệt sĩ Sa Thầy.
Trong số những hài cốt liệt sĩ tìm thấy có đội trưởng của ông. Ông Tứ chia sẻ, ông nhớ mãi chiếc mũ và khẩu súng của đội trưởng nên nhìn thấy những quân trang này, ông nhận ra ngay. Cảm xúc khi ấy như vỡ òa.
Năm 2009, nhằm tri ân những người con ưu tú của Thủ đô Hà Nội đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Thành ủy, HĐND, UBND TP Hà Nội đã đầu tư kinh phí xây dựng Khu tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Hà Nội hy sinh ở mặt trận Bắc Tây Nguyên tại Kon Tum
“Đưa đồng chí, đồng đội của mình về với quê hương, gia đình, chúng tôi cảm thấy cuộc đời mình mãn nguyện lắm rồi! Tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng vì tuổi thanh xuân được cống hiến hết mình cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, còn thời bình, tôi và đồng đội đã tìm thấy các đồng chí của mình ngã xuống tại chiến trường ác liệt năm xưa. Cuối cùng, lời hứa với đồng đội đã hoàn thành”, cựu chiến binh Nguyễn Xuân Tứ nghẹn ngào.
Cựu chiến binh Đặng Sỹ Ngọc (phải) từng 7 lần bị thương khi tham gia chiến đấu
Cựu chiến binh Đặng Sỹ Ngọc (SN 1948, quê Nghệ An) từng viết đơn tình nguyện bằng máu để xung phong vào bộ đội khi 18 tuổi. Tháng 6/1967, ông được biên chế vào Đại đội 2, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 90, Sư đoàn 324 chiến đấu tại chiến trường Quảng Trị. Trong 6 năm tham gia chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị, ông bị thương 7 lần, có lúc tưởng chừng như không thể qua khỏi do vết thương quá nặng.
Với nghị lực của người lính bộ đội Cụ Hồ, khi bình phục, ông lại tiếp tục xung phong vào chiến trường tham gia chiến đấu. Đến lần thứ 7, ông bị thương nặng ở ổ bụng và chân, được đơn vị cho về điều trị và an dưỡng tại trại Điều dưỡng thương binh nặng thuộc Đoàn 202 Quân khu IV. Riêng chân phải, ông phải mổ đến lần thứ 8 mới được coi là tạm ổn.
Từ khi trở về quê hương cho đến nay, ông chưa bao giờ ngơi nghĩ về đồng đội, đặc biệt là những người đã ngã xuống để bảo vệ đất nước, hay những đồng đội sẵn sàng che chở, chăm sóc ông khi bị thương. Mỗi lần nghĩ về những kỷ niệm sâu sắc ấy, ông lại bật khóc. Trong sâu thẳm trái tim người lính ấy là tình yêu thương, trân trọng, biết ơn những người đồng đội cùng vào sinh ra tử. Ở đó có người con gái tên Diệp mà ông từng nhiều lần tìm kiếm nhưng bà đã hy sinh. Bà là người không quản ngại vất vả, bên cạnh chăm sóc ông khi bị thương tại chiến trường. Những rung động đầu đời, những tình bạn chân thành cứ thế theo ông đi suốt cuộc đời, như món quà quý giá, thiêng liêng nhất của tuổi thanh xuân.
Dù là thương binh với thương tật 81% nhưng ông vẫn cần mẫn chạy xe ôm để trang trải cuộc sống và trích một khoản để tiết kiệm giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn và đi tìm đồng đội. Dù tuổi cao sức yếu nhưng nghĩ đến các đồng đội vẫn chưa được trở về với gia đình, ông lại trăn trở không nguôi. Với nỗ lực tìm kiếm mộ đồng đội, từ những trang nhật ký, đến nay, ông đã tìm được 6 mộ liệt sĩ.
Những người lính trực tiếp tham gia chiến đấu chính là những người thấu hiểu hơn ai hết sự ác liệt của chiến tranh. Xa quê hương, gia đình thì đồng chí, đồng đội chính là những người đồng hành, bầu bạn, sẻ chia, giúp đỡ họ trong cuộc sống và chiến đấu. Cũng trong hành trình “gieo tự do cho đất nước” ấy, những tình cảm chân thành của bạn bè, đồng đội, đồng chí đã tạo động lực to lớn, tiếp thêm cho người lính sức mạnh, sự can trường nơi chiến tuyến, lằn ranh sinh tử chỉ cách nhau gang tấc. Giống như lời thoại của nhân vật Hải trong phim điện ảnh “Mưa đỏ”: “Đừng nản lòng, đừng bỏ cuộc, chúng ta sẽ giành chiến thắng”. Và sự thật là ông cha ta đã giành chiến thắng, mang lại độc lập, tự do cho đất nước, giúp thế hệ hôm nay được sống trong hòa bình và hạnh phúc.
An Nhiên