Sức mạnh của lá đơn thứ 72 công lý mới mở cửa

Sức mạnh của lá đơn thứ 72 công lý mới mở cửa
11 giờ trướcBài gốc
SỨC MẠNH CỦA LÁ ĐƠN THỨ 72 CÔNG LÝ MỚI MỞ CỬA
(Báo Bình Phước, 12-4-1997)
Nguyễn Trọng Ty
(Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao)
BPO - Vụ án xảy ra cách đây đã hơn 30 năm, mặc dù thời gian đã trôi qua, mỗi khi nhớ lại, ít nhiều để lại trong lòng chúng ta một nỗi đau nhức nhối vì sự ấu trĩ, non yếu của pháp luật và những người đang cầm cán công lý, vì thiếu trách nhiệm hay nói cho đúng hơn là thiếu hiểu biết đã đẩy những người lương thiện vào vòng tội lỗi. Chúng tôi tự hỏi - Nếu lá đơn thứ 72 này không đến tay Bác Hồ thì số phận những người này sẽ ra sao? Ai tìm lại sự sống và lòng tin cho họ.
*
Diễn biến vụ án được tóm tắt như sau:
Đỗ Văn Chồi, Đỗ Văn Mạnh và Đỗ Thị Tương ở thôn Thượng Thông, tỉnh Thanh Hóa. Họ bị kết án oan và đã ở “tù oan” đến 8 năm trời. Một khoảng thời gian vô giá của một đời người.
Trong thời gian đó, cứ cách 1 tháng Đỗ Văn Chồi lại làm đơn kêu oan gửi tới các cơ quan từ cấp huyện đến trung ương. 71 lượt đơn đã được gửi đi, nhưng câu trả lời vẫn chỉ là một: Xử án đúng! Uất ức, nghẹn ngào, nhưng niềm hy vọng vào công lý còn lớn hơn. Chồi nghĩ rằng, còn một nơi anh chưa dám gửi đơn kêu oan tới - đó là Bác Hồ, liệu rằng có đến tay Người không? Và Người có thì giờ để xem xét không? v.v… Bao nhiêu nỗi đắn đo, cuối cùng lá đơn thứ 72 đã được gửi đi và đã đến tay Bác Hồ.
Đồng chí Vũ Kỳ, thư ký riêng của Bác Hồ kể lại rằng:
“Bác đọc đơn xong, Bác rất xúc động và ngồi hàng giờ bên bàn làm việc và đọc đi đọc lại nhiều lần. Cuối cùng Bác gọi đồng chí giúp việc lại bảo: “Chú gửi đơn này cho Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Nói với các đồng chí ấy rằng: Bác không hài lòng với lối làm việc cứ đùn đẩy cho nhau. Người ta viết 70 lá đơn mà không cơ quan nào đứng ra giải quyết dứt điểm. Bác yêu cầu Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải giải quyết việc này, rồi báo cáo kết quả cho Bác biết”.
Thi hành chỉ thị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, đoàn chúng tôi có nhiệm vụ phải làm sự việc của chú cháu Đỗ Văn Chồi có bị oan thật không? Nếu oan thì kẻ nào đã giết chị Là?
Đầu tiên chúng tôi đến trại cải tạo gặp anh Chồi cùng hai người cháu của anh: Đỗ Thị Tương, Đỗ Văn Mạnh.
Khi đến trại cải tạo, giám thị đã kể với chúng tôi: Đỗ Văn Chồi có những biểu hiện khác hẳn với những người tù khác. Chẳng hạn như việc đã xét giảm án, ân xá hàng năm, anh ta một mực từ chối không nhận, chỉ xin minh oan thôi. Kêu oan cứ kêu, nhưng nội quy kỷ luật của trại anh chấp hành rất nghiêm túc. Các chỉ tiêu lao động anh ta đều được qua và làm việc một cách tự giác. Hàng tháng, Chồi còn dành một phần tiền tiêu vặt để đóng đảng phí chúng tôi không nhận, thế là anh ta lấy một ống tre, tiện làm nắp cẩn thận rồi cứ bỏ tiền vào đấy, chờ ngày được minh oan sẽ nộp cho Đảng.
Anh Chồi đã kể lại chúng tôi nghe… “Vào cái đêm chị Là bị giết, nhà tôi có hai đứa trẻ lên đậu mùa. Các cháu quấy lắm, vợ chồng tôi phải thay nhau thức với các cháu. Khi nghe tiếng kêu cháy nhà, với trách nhiệm phó chủ tịch kiêm trưởng công an xã, tôi đã chạy sang gọi anh Giáp là dân quân thường trực, nhà ở cạnh tôi. Hai anh em cầm gậy chạy vào hướng trong làng, chạy được bảy tám trăm mét, chúng tôi biết nhà cháy không phải ở trong làng mà là nhà chị Là ở đồi Gia Bàng. Chúng tôi tới nơi thì đã có nhiều người đến trước rồi. Nhà chị Là cũng đã cháy hết. Gọi là nhà mà thực ra nó chỉ là cái lều tranh một gian hai chái.
Thấy tôi đến, mọi người cho biết chị Là đã chết nằm trong đó. Tôi vội vàng cử người trở về Đồng Triệu báo cáo với công an huyện, mặt khác cho canh gác bảo vệ hiện trường.
Khi khám nghiệm người ta thấy chị Là bị đập vỡ sọ, óc và máu của chị bắn tóe cả một mảng tường đất đầu giường chị nằm.
Công an tỉnh, huyện về mở chuyên án. Trong những ngày đầu tôi thường xuyên được giao nhiệm vụ thu thập tình hình, dư luận của nhân dân trong thôn, trong xã để báo cáo hằng ngày.
Tự nhiên bẵng đi, không ai liên lạc với tôi nữa, rồi tôi nghe người ta xì xào với nhau chính thằng Mạnh cháu tôi đã giết chị Là. Áo của nó còn dính máu. Tôi hoang mang quá, chưa biết thực hư ra sao, thì tôi và cô Tương chị thằng Mạnh cũng bị bắt. Ở trong nhà giam, người ta đã nói với tôi: Thằng Mạnh khai nhận hết cả rồi. Tôi và chị nó bàn bạc giao cho nó “phải giết chị Là để trả thù cho cô Tương. Vì cô Tương có thù tức với chị Là từ hồi cải cách ruộng đất. Người ta còn nói rằng, chính đêm hôm đó tôi đứng ở gốc gạo cạnh đường 18 canh chừng cho thằng Mạnh vào giết chị Là. Tôi đã van xin các ông ấy đừng nghe những lời khai bậy. Nhưng vô hiệu. Người ta còn bắt thằng Mạnh ra đối chất với tôi. Thưa các ông, nói đối chất, thực ra tôi có được nói gì đâu. Các ông ấy chỉ cho thằng Mạnh khai với nội dung tương tự như trên rồi lại cho nó về; còn tôi ở lại nghe các ông ấy động viên, đe dọa, dụ dỗ nhưng tôi vẫn không nhận. Vì thực tế tôi không làm điều bất nhẫn ấy.
Nhưng cuối cùng thì tôi đã nhận và đã diễn lại hiện trường cho người ta chụp ảnh. Vì nếu lúc ấy tôi không nhận để được lĩnh cái án 20 năm tù, chắc chắn tôi không còn sống được đến ngày ra tòa. Và hôm nay cũng không còn ngồi đây để trình bày với các ông nữa”.
Sau đó, chúng tôi gặp Đỗ Văn Mạnh. Bắt đầu vào nội dung câu chuyện. Mạnh đã đứng phắt dậy, cuốn hai vạt áo lên tận ngực rồi nói:
- Mời các ông xem đây! Tất cả chúng tôi đều thấy ngay một vết sẹo ngoằn ngoèo chạy dài từ ức xuống qua rốn. Dọc theo vết sẹo là những mũi khâu còn để lại những vệt răn rúm.
Mạnh kể với chúng tôi: “Vết sẹo này chính tay tôi vạch đấy. Lúc đầu tôi định lấy máu ở tay ra viết thư gởi lên Bác Hồ. Tôi mới viết được mấy câu… “Bác ơi, con không bao giờ dám làm sai lời dạy của Bác. Con không giết chị Là”. Tôi còn định viết nữa thì họ đã phát hiện thu mất. Họ bảo tôi là ngoan cố, họ dọa cùm. Tôi ức quá muốn chết đi cho khỏi tủi nhục. Tôi lấy mảnh bóng đèn giấu được rạch vào bụng mình. Tôi rạch đến ba bốn nhát, ruột mới lòi ra. Tôi chắc thế nào cũng được chết. Không ngờ khi tỉnh dậy thấy mình đang nằm ở bệnh viện. Đến hôm ra tòa người ta bảo tôi rạch bụng để hòng trốn tránh tội lỗi. Người ta đã phạt tôi 18 năm tù. Đến nay tôi tù được 8 năm rồi”.
- Anh nói anh không giết chị Là, tại sao anh lại nhận, áo anh lại có máu. Một đồng chí trong đoàn hỏi.
- Vâng, chính cái vết ấy đã gieo tai họa đến gia đình tôi. Hồi ấy tôi đang là nhân viên giao thông bưu điện. Khi đưa thư, đi qua nhà ông Cảnh ở làng bên, tôi ghé vào xem hoạn trâu, ông ấy nhờ tôi giữ hộ, khi con trâu giẫy đã phun máu vào áo tôi, tối về tôi chưa kịp giặt. Sáng sau tôi đem áo ra mương nước giặt, một số người đi làm trông thấy, hỏi, tôi cũng nói là như vậy, và cũng chính lúc ấy tôi nghe người ta kể chuyện đêm qua chị Là bị giết, nhà bị đốt. Thực tình đêm đó tôi ngủ tôi không biết gì cả. Vì nhà tôi cách nhà chị Là cũng quá xa.
Khi người ta bắt tôi, họ thu cả cái áo có dính máu. Ông Cảnh và bao nhiêu người, ở chỗ hoạn trâu đồng xác nhận cho tôi, có giữ hộ trâu hoạn và có bị máu phun vào áo tôi. Mặc dầu vậy người ta vẫn không tin. Người ta bảo tôi phải tin vào khoa học, “khoa học đã xét nghiệm máu trên áo tôi giống máu người, không phải máu súc vật”. Thế là tôi hết đường chối cãi. Tôi nhận. Nhận cho xong, nhận để khỏi phải tra tấn cùm kẹp.
Lúc đầu tôi tưởng mình nhận là xong, không ngờ họ bắt tôi phải khai vì sao giết chị Là, những ai bàn bạc cùng. Thế là đành liều, tôi phải khai do chị Tương tôi xui, do chú Chồi đi bàn bạc kế hoạch và đứng gác cho tôi hành động.
Tôi còn khai, dao bầu tôi mượn của cô Mọc. Người ta hỏi cô Mọc, cô Mọc không nhận, cũng bị giam vài tháng, khi xử án tôi, cô được án treo.
Thế là mình tôi - đã làm khổ cả chú tôi, cô tôi và chị Tương. Tám năm bị tù đày oan uổng.
Còn chị Tương, người bị kết án 15 năm tù vì “đã xúi giục chú em giết chị Là” - chị em dâu với mình. Sau khi bị kết án, chồng chị đã lập tức xin ly dị để lấy vợ khác. Ba đứa con nhỏ của chị phải về sống dựa vào bố mẹ đẻ ra chị. Khi gặp chúng tôi, chị chỉ khóc. Khóc mãi, khóc mãi cho đến khi cạn hết nước mắt, chị mới nghẹn ngào nói: “Xin Đảng soi sét cho chú cháu tôi, chú cháu tôi bị oan uổng quá. Tôi chỉ muốn chết”.
Công việc xác minh những điều cần thiết đã được tiến hành nhanh chóng và bản án giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao đã được tuyên bố: “Chồi, Tương, Mạnh không phạm tội giết người”.
Mãi hai năm sau khi Chồi, Tương, Mạnh được thả tự do, kẻ giết chị Là mới bị vạch mặt, đó chính là người chồng bội bạc của chị.
Câu chuyện đã cũ, nhưng nó vẫn là một bài học rất thời sự cho chúng ta: phải thận trọng trong xét xử, còn đau lòng gì hơn khi làm oan cho người vô tội. Và mọi cán bộ có chức quyền cần quan tâm thực sự tới những lời khiếu tố của mọi người dân.
Nguồn Bình Phước : https://baobinhphuoc.com.vn/news/548/170693/suc-manh-cua-la-don-thu-72-cong-ly-moi-mo-cua