Ông Phạm Tiến Dũng - Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ảnh: NCA
Động lực mới cho tăng trưởng
Trong nhiều năm qua, tài sản số, đặc biệt là tài sản mã hóa thường bị nhìn nhận với nhiều e ngại. Nhưng với việc Việt Nam chính thức công nhận, bao gồm cả hình thức mã hóa các tài sản truyền thống, cục diện đã thay đổi.
Ông Johan Nyvene - Chủ tịch Công ty CP Chứng khoán TP Hồ Chí Minh cho biết, trước đây tài sản mã hóa thường bị gắn mác tiêu cực, thậm chí bị coi là lừa đảo. Việc công nhận chính thức không chỉ tạo hành lang pháp lý mà còn mở ra cơ hội đưa các tài sản truyền thống vào giao dịch dưới dạng mã hóa. Việt Nam vốn là một trong những thị trường giao dịch tiền mã hóa lớn nhất thế giới, nên đây là tín hiệu rất tích cực. Khi tài sản mã hóa được đưa vào TTTCQT, đây sẽ là bước khởi đầu quan trọng để thu hút vốn từ các tổ chức quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh dân số trẻ và tỷ lệ dân nhập cư cao.
Ông Johan Nyvene cho rằng sau khi có nghị quyết công nhận, điều tiếp theo cần làm là xây dựng chính sách và khung pháp lý rõ ràng, kèm cơ chế thử nghiệm (sandbox) để tạo điều kiện cho các sản phẩm mã hóa ra đời, bao gồm cả việc mã hóa tài sản truyền thống nhằm mở rộng giao dịch và thu hút vốn quốc tế.
Giám đốc Trung tâm Mô phỏng và Dự báo kinh tế – Viện Nghiên cứu Phát triển TP Hồ Chí Minh Nguyễn Trúc Vân cho biết, Nghị quyết 222 về TTTCQT tại Việt Nam, có hiệu lực từ 1/9/2025, xác định ba lĩnh vực ưu tiên phát triển, trong đó có tài sản số và công nghệ tài chính (fintech). TTTCQT tại TP HCM sẽ bao gồm ba cơ quan chính: điều hành, giám sát và giải quyết tranh chấp – với tòa án chuyên biệt và trung tâm trọng tài quốc tế.
“Hiện các cơ quan chức năng đang xây dựng tám nghị định hướng dẫn thành lập TTTCQT tại TP HCM và Đà Nẵng, trong đó có những ưu đãi cụ thể liên quan tài sản số, như về thuế hay nguồn lao động khi các tổ chức quốc tế tham gia” – bà Nguyễn Trúc Vân nhấn mạnh.
Theo Statista, thị trường tài sản số Việt Nam dự kiến đạt 2,9 tỉ USD vào năm 2026, với tốc độ tăng trưởng kép hằng năm khoảng 21,5%. Tiềm năng lớn, nhưng thách thức cũng không nhỏ, đòi hỏi thêm những đột phá về chính sách và công nghệ.
Cần mở rộng giới hạn
Tổng Thư ký Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính (VAFI) Phùng Anh Tuấn cho rằng, để thị trường tài sản số phát triển mạnh mẽ và gắn kết hiệu quả với TTTCQT, không nên chỉ giới hạn trong mô hình trung tâm thông thường mà cần mở rộng thành trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D). Điều này giúp hình thành các thể chế đột phá, kết nối thị trường hiệu quả hơn và thu hút vốn quốc tế thuận lợi hơn.
Theo đó, thị trường sẽ chỉ phát triển bền vững nếu khuyến khích sự đa dạng và tính mở của các sàn giao dịch, tránh giới hạn hoặc độc quyền. Việc cho phép nhiều sàn và người dùng tham gia cần đi kèm cơ chế quản lý, giám sát chặt chẽ; thay vì cấm đoán, nên áp dụng phương thức quản lý phù hợp.
Việt Nam là một trong những thị trường giao dịch tiền mã hóa lớn nhất thế giới. Ảnh: I.E
Cơ quan quản lý cần có nền tảng công nghệ đủ mạnh để theo dõi, xử lý kịp thời các vấn đề như gian lận, thao túng; đồng thời phối hợp với sàn giao dịch nhằm bảo đảm an toàn, tuân thủ pháp luật. Một cơ quan chuyên trách với đủ quyền hạn, năng lực và cơ chế bảo vệ quyền lợi người dùng là cần thiết, đặc biệt trong giải quyết tranh chấp và phòng chống rửa tiền.
Ông Johan Nyvene kỳ vọng khi TTTCQT đi vào hoạt động, sẽ sớm có những sản phẩm đầu tiên được giao dịch, bắt đầu từ các sản phẩm lành tính và dễ chấp nhận.
Theo ông Phạm Tiến Dũng - Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội An ninh mạng quốc gia (NCA), cần xác định rõ tài sản số là tài sản, không phải tiền tệ, để tránh ràng buộc không cần thiết trong quản lý. Ông nhấn mạnh, xây dựng một hệ sinh thái số an toàn là điều kiện tiên quyết để bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư và doanh nghiệp.
Ông Dũng cho biết đã có ba diễn biến chính sách quan trọng mở đường cho blockchain và tài sản số: Nghị quyết của Quốc hội về TTTCQT, trong đó đề cập sàn giao dịch tài sản số; Bộ Tài chính trình đề án thí điểm sàn giao dịch chuyên biệt và Luật Công nghiệp Công nghệ số xác định blockchain là hạ tầng chiến lược quốc gia trong 10 năm tới.
“Cửa sổ cơ hội” nhưng không dành cho tất cả
Với anh Nguyễn Minh Hoàng - 35 tuổi, nhà đầu tư cá nhân tại TP Hồ Chí Minh, thông tin Việt Nam luật hóa và đưa tài sản số vào TTTCQT giống như “bật đèn xanh” cho hành trình anh chờ đợi nhiều năm. Trước đây, Hoàng từng đầu tư vào một số dự án blockchain ở Singapore nhưng thấy bất tiện và thiếu an toàn khi phải giao dịch qua nền tảng nước ngoài. “Khi có khung pháp lý trong nước, tôi yên tâm hơn vì ít nhất đã có luật bảo vệ” – anh Hoàng chia sẻ.
Tương tự, chị Lê Thảo Vy - 29 tuổi, nhà đầu tư quen thuộc với NFT và token hóa bất động sản, cũng nhìn thấy cơ hội khi được giao dịch trong môi trường được Nhà nước cấp phép và pháp luật quy định rõ ràng.
Sự xuất hiện của các sàn giao dịch hợp pháp không chỉ tạo thêm lựa chọn bên cạnh cổ phiếu và trái phiếu, mà còn mở đường cho nhà đầu tư cá nhân tiếp cận nhiều loại tài sản mới như crypto hay crowdfunding. Chi phí tiếp cận giảm, quy mô đầu tư linh hoạt hơn, khuyến khích cả nhà đầu tư nhỏ lẻ. Đồng thời, việc “mở cửa” thị trường tiền số cũng hứa hẹn thu hút lượng lớn nhà đầu tư quốc tế, giúp thị trường minh bạch hơn, phản ánh đúng cung – cầu và cải thiện tốc độ xử lý giao dịch.
Tuy nhiên, cơ hội luôn đi kèm thách thức. Trước đây, lo ngại chính của nhà đầu tư là lừa đảo và tranh chấp do giao dịch “chui”; nay, với khung pháp lý, yêu cầu lớn nhất là nâng cao kiến thức về thị trường. Biến động giá mạnh, rủi ro công nghệ và nguy cơ chọn nhầm dự án “bong bóng” vẫn có thể gây thiệt hại nặng nề.
TTTCQT có thể trở thành đòn bẩy quan trọng để Việt Nam bứt tốc trong nền kinh tế số, nhưng để thành công, nhà đầu tư cần chuẩn bị kỹ về kiến thức, kỹ năng phân tích và chiến lược quản trị rủi ro. Ngược lại, cơ quan quản lý phải thiết lập hệ thống giám sát chặt chẽ từ tiêu chuẩn niêm yết, kiểm toán dự án đến cơ chế bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư nhằm bảo đảm thị trường tài sản số phát triển lành mạnh, bền vững.
Minh Đức - Yến Nhi