Tăng tự chủ đại học, nâng cơ sở vật chất và chất lượng giáo dục
Thảo luận về chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035; Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 – 2035, đại biểu Nguyễn Thị Lan (đoàn Hà Nội) đánh giá cao công tác chuẩn bị của cơ quan soạn thảo và thẩm tra. Bà nhấn mạnh: “Dự thảo công phu, hiện đại, thể hiện quyết tâm đổi mới mạnh mẽ qua cách tiếp cận theo mục tiêu của từng dự án thành phần, cùng với ưu tiên các vùng khó khăn. Đây cho thấy tầm nhìn đúng đắn và toàn diện trong phát triển nguồn nhân lực quốc gia”.
Tổng Bí thư Tô Lâm
Nếu chúng ta bây giờ cứ tập trung y tế chữa bệnh, nhưng cứ để môi trường như thế, cứ để nước bẩn như thế, uống nước như thế, cứ để ăn uống coi như vô tội vạ như thế, chính là sinh bệnh ở đấy. Cái nguồn của căn cơ của bệnh tật không được chăm lo, không được giải quyết. Ô nhiễm thế này thì làm sao hết được ung thư phổi. Uống nước không đảm bảo vệ sinh thì phát sinh bao nhiêu bệnh nữa. Cuộc sống người dân, người ta đòi hỏi phải đến như thế. Nước người ta phải uống ngay được từ vòi cơ mà. Mình đến nước ở vòi nấu chín rồi vẫn còn sợ. Nước uống vào chai rồi vẫn ngộ độc, vẫn thấy thế này thế kia. Còn ăn uống vệ sinh an toàn thực phẩm, nếu không vệ sinh an toàn thực phẩm thì có xây đến bao nhiêu bệnh viện cũng không thể đủ được, đào tạo bao nhiêu bác sĩ cũng không thể giải quyết được việc này.
Song bà Lan cũng nêu ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện dự thảo nghị quyết, tập trung vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, lĩnh vực chiến lược trong giai đoạn tới. Theo bà, dự thảo mới dừng ở việc định vị giáo dục đại học, nhưng chưa có cơ chế để các trường thực sự trở thành động lực đổi mới sáng tạo.
“Ví dụ, Singapore bứt phá nhờ trao quyền tự chủ toàn diện cho đại học quốc gia; Hàn Quốc hình thành hệ thống giáo dục là trung tâm đổi mới công nghệ cho nền kinh tế”, bà Lan dẫn chứng. Do đó, bà kiến nghị thí điểm cơ chế tự chủ mạnh mẽ cho các trường đại học trọng điểm, với kiểm soát an toàn, hình thành trung tâm nghiên cứu đổi mới sáng tạo tại các trường, đồng thời tăng tỷ lệ chi cho nghiên cứu và ban hành chuẩn đại học nghiên cứu để định hướng đầu tư.
Cùng quan điểm, đại biểu Hoàng Văn Cường (đoàn Hà Nội) nhấn mạnh: “Tôi hoàn toàn đồng tình với sự cần thiết phải triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục. Để có một nền giáo dục hiện đại, đồng bộ và đạt chuẩn, trước hết cần đảm bảo cơ sở vật chất đầy đủ cho các hoạt động dạy và học”. Ông lưu ý, chương trình đã đặt ra mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non và đảm bảo cơ sở vật chất từ mầm non đến phổ thông.
Về giáo dục nghề nghiệp, ông Cường cho rằng các cơ sở phải được trang bị thiết bị thực hành hiện đại, tương đương máy móc và công nghệ doanh nghiệp, đồng thời kết hợp với cơ sở sản xuất thực tế để học sinh tiếp cận toàn diện kiến thức và kỹ năng. Ông cũng đề xuất đầu tư mạnh cho giáo dục đại học, hướng tới bứt phá chất lượng, tương tự các chương trình phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc trong hai thập kỷ qua.
Bí thư tỉnh ủy Phú Thọ, Trương Quốc Huy
Việc ban hành hai chương trình này là rất cần thiết. Tuy nhiên, nguồn lực cho chương trình trên 500.000 tỷ đồng, hiện chưa biết lấy từ đâu. Bởi kết quả thu ngân sách hiện nay, chi thường xuyên tỷ trọng rất lớn, khoảng 60-62%, còn chi cho đầu tư phát triển chỉ khoảng 30%. Điều này dẫn đến bài toán khó về nguồn lực để đầu tư cho y tế và giáo dục. Nhiều địa phương hiện nay chủ yếu dùng tiền đất để đầu tư hạ tầng, nhưng không nhiều, chỉ khoảng 10 tỉnh có nguồn trên 34 tỷ…
Sinh viên tốt nghiệp cao đẳng nghề hay đại học ra không làm việc được ngay, doanh nghiệp phải đào tạo thêm. Đào tạo hiện nay chưa gắn với nhu cầu doanh nghiệp. Nếu hệ thống các trường nghề liên hệ chặt chẽ với doanh nghiệp, đào tạo sẽ đúng địa chỉ, phát huy hiệu quả và tránh lãng phí.
Ông Cường đánh giá tổng kinh phí khoảng 580.000 tỷ đồng, tập trung vào 5 dự án thành phần, trong đó 3 dự án lớn là đầu tư cơ sở vật chất từ giáo dục mầm non, phổ thông đến giáo dục nghề nghiệp và đại học. Phần thứ tư của chương trình là đào tạo con người, nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên. “Đây là yếu tố cực kỳ quan trọng, bởi dù cơ sở vật chất hiện đại đến đâu, nếu đội ngũ giáo viên không đủ trình độ, chất lượng giáo dục sẽ không thể đảm bảo”, ông Cường nhấn mạnh.
Ưu tiên y tế cơ sở, giáo dục miền núi khó khăn
Còn đại biểu Trần Thị Nhị Hà (đoàn Hà Nội) nhận xét: “Tôi đánh giá cao nội dung chương trình bám sát Nghị quyết 72, tập trung vào y tế cơ sở, ưu tiên vùng khó khăn và gắn với chuyển đổi số để quản lý sức khỏe người dân. Các mục tiêu đề ra phù hợp với bối cảnh Việt Nam hiện nay, như già hóa dân số, tỷ suất sinh thấp, mất cân bằng giới tính khi sinh, gia tăng bệnh không lây nhiễm, tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi và béo phì.”
Bà Hà lưu ý các chỉ tiêu cụ thể, như 90% xã, phường đạt bộ tiêu chí quốc gia về y tế vào năm 2030 và 95% vào năm 2035. Bà đề nghị cân nhắc điều kiện thực tế của các địa phương, bởi hiện có nơi mới đạt khoảng 8%. Về quản lý bệnh không lây nhiễm, bà nêu: “Đây là chỉ tiêu quan trọng, bởi quản lý bệnh không lây nhiễm tại cơ sở sẽ giảm tải chi phí cho tuyến trên. Việc này cần triển khai đồng bộ, ứng dụng công nghệ thông tin, hồ sơ sức khỏe điện tử và nâng cao năng lực trạm y tế cơ sở”, bà Hà nêu quan điểm.
Bà đề xuất, bổ sung tỷ lệ ngân sách đầu tư cho y tế cơ sở tối thiểu 60-70%, ưu tiên vùng khó khăn. Về dinh dưỡng trẻ em, bà nhấn mạnh cần can thiệp từ khi bà mẹ mang thai, sơ sinh và học đường, ưu tiên vùng khó khăn, dân tộc thiểu số, đồng thời dự trù kinh phí thường xuyên 10-12% cho dinh dưỡng và phòng chống béo phì.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn
Mục tiêu kiên cố hóa toàn bộ các trường học đến năm 2030, hiện còn khoảng 13% trường tạm trên toàn quốc, tỷ lệ này ở một số tỉnh khó khăn còn trên 40%. Chương trình ưu tiên các cơ sở giáo dục mầm non và tiểu học, huy động nguồn lực từ Trung ương, địa phương và xã hội để xóa bỏ các nhà tạm, tạo điều kiện cơ sở vật chất đầy đủ cho học sinh, giúp triển khai chương trình giáo dục phổ thông phát triển toàn diện.
Đặc biệt, các yêu cầu mới về giáo dục STEM, ngoại ngữ, công nghệ thông tin đòi hỏi cơ sở vật chất kịp thời. Các trường đại học, cao đẳng nghề cũng được đầu tư trong dự án thành phần, trong đó chú trọng phát triển đội ngũ nhà giáo.
Đại biểu Nguyễn Thị Thu Nguyệt (đoàn Đắk Lắk) nêu, nhiều vấn đề thực tiễn cần được Chính phủ quan tâm khi triển khai chương trình mục tiêu quốc gia, dựa trên kinh nghiệm từ các chương trình đã thực hiện. Bà nhấn mạnh, để chương trình khả thi, cần tập trung vào ba nhóm vấn đề chính: công bằng trong tiếp cận giáo dục, chuyển đổi số và nâng cao chất lượng giáo viên, đồng thời thúc đẩy xã hội hóa giáo dục.
Về công bằng trong giáo dục, bà Nguyễn Thị Thu Nguyệt cho rằng, nên ưu tiên các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và đồng bào dân tộc thiểu số. Thực tế hiện nay cho thấy chất lượng giáo dục chênh lệch lớn giữa các địa phương, nguyên nhân có thể từ nội lực đội ngũ cán bộ, giáo viên, hoặc cơ chế phân bổ nguồn lực chưa hợp lý, chưa có lộ trình ưu tiên rõ ràng. Bà đề nghị, cần xác định cụ thể đối tượng thụ hưởng, nguồn lực và lộ trình đầu tư để đảm bảo tiếp cận công bằng, không chỉ lý thuyết mà bằng số liệu, kinh phí và con người cụ thể.
Về chuyển đổi số, bà đề xuất, xây dựng hệ sinh thái học tập số quốc gia, phát triển học liệu điện tử, nền tảng quản trị thông minh và áp dụng các mô hình công nghệ trong các trường trọng điểm. Bà nhấn mạnh, việc triển khai chuyển đổi số cần chọn địa phương, khu vực trọng điểm làm điểm dẫn dắt thay vì phân bổ dàn trải, nhằm tạo hiệu quả thực tiễn.
Về đầu tư nguồn nhân lực và chất lượng giáo viên, bà Nguyệt cho hay: “Chiến lược đầu tư phải tập trung nâng tầm chất lượng giáo viên, bao gồm năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm giảng dạy. Cơ chế đặc thù để thu hút nhân tài, chính sách đã ban hành cần được đánh giá hiệu quả, nếu chưa đủ mạnh thì cần điều chỉnh để đảm bảo đội ngũ giáo viên tâm huyết, đủ năng lực nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt ở các địa phương khó khăn”.
Cuối cùng, bà Nguyệt tán đồng ý kiến về khuyến khích xã hội hóa giáo dục. Cần có cơ chế ưu đãi, miễn giảm thuế, huy động nguồn lực từ doanh nghiệp và người dân, thay vì chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước. Đồng thời, việc lồng ghép chương trình mục tiêu quốc gia với các chương trình khác như xây dựng nông thôn mới hay văn hóa phải rõ ràng để tránh trùng lắp, nâng cao hiệu quả thực hiện.
Ánh Phương/VOV.VN