Chênh lệch tiếp cận dịch vụ y tế giữa đô thị và nông thôn
Theo ĐBQH Trần Thị Nhị Hà, Dự thảo Chương trình mục tiêu quốc gia đặt ra các chỉ tiêu rất cao, trong bối cảnh y tế Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức từ việc già hóa dân số nhanh, tỷ suất sinh thấp, mất cân bằng giới tính khi sinh, các bệnh không lây nhiễm, tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi, béo phì cũng gia tăng, trong khi đó nhân lực y tế cơ sở vừa thiếu, vừa yếu, vừa chưa đồng bộ, chênh lệch tiếp cận dịch vụ y tế giữa đô thị, vùng nông thôn vẫn còn rất lớn.
ĐBQH Trần Thị Nhị Hà phát biểu thảo luận tại Tổ 1
Để những con số được nêu trong Nghị quyết thực sự trở thành mệnh lệnh hành động, bảo đảm tính khả thi và đạt kết quả thực chất khi triển khai, ĐBQH Trần Thị Nhị Hà đã góp ý một số nội dung để Chương trình mục tiêu quốc gia đạt được những kết quả như kỳ vọng được đặt ra.
Theo đó, về nhóm các mục tiêu liên quan đến hệ thống y tế cơ sở, Dự thảo Nghị quyết đưa ra mục tiêu “tỷ lệ xã, phường, đặc khu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã là 90% vào năm 2030 và đạt 95% đến năm 2035”. Đại biểu đánh giá đây là tiêu chuẩn cao so với tiêu chuẩn chung của các nước có cùng mức thu nhập; đồng thời, Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã của Việt Nam do Bộ Y tế ban hành cũng tiếp cận vấn đề tiêu chí y tế xã rộng hơn, không chỉ quy định về điều kiện đối với trạm y tế.
"Hiện nay, nhiều tỉnh, thành phố có nguồn ngân sách địa phương lớn đã hoàn thành mục tiêu này, thậm chí Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã đạt trên mức 95%, trong khi nhiều địa phương mới chỉ ở mức 70, 80%. Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã cần phải thay đổi phù hợp với mô hình trạm y tế xã phường mới và Trạm y tế phải là đơn vị sự nghiệp công lập", đại biểu Trần Thị Nhị Hà nêu rõ.
Bên cạnh đó Dự thảo Nghị quyết đưa ra mục tiêu “Tỷ lệ trạm y tế xã, phường, đặc khu trên toàn quốc triển khai thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm đầy đủ theo quy trình được hướng dẫn đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035”. Theo phân tích của đại biểu, Tổ chức Y tế Thế giới xác định việc quản lý các bệnh không lây nhiễm tại tuyến cơ sở là năng lực quan trọng nhất trong hệ thống y tế. Trong khi đó, mục tiêu trong Dự thảo Nghị quyết rất cao, vượt mức trung bình trong khu vực và các nước có mức thu nhập trung bình tương đương.
"Triển khai được thành công mục tiêu này đòi hỏi phải đầu tư nguồn lực rất bài bản, có các chính sách để đảm bảo nhân lực tại tuyến xã. Đồng thời, cần phải được triển khai đồng bộ Hồ sơ sức khỏe điện tử gắn với VneID trên tất cả các địa bàn", đại biểu Trần Thị Nhị Hà nhấn mạnh.
Ngoài ra, theo quy định tại mục 4 về nguyên tắc phân bổ ngân sách trung ương hỗ trợ thực hiện chương trình chưa cụ thể, để đạt được các mục tiêu trên, về nguồn lực đầu tư công cần được phân bổ một số nguyên tắc ngay trong Dự thảo. Do đó, đại biểu đề nghị sửa điểm b mục 4 của Dự thảo Nghị quyết: “Tỷ lệ phân bổ bắt buộc tối thiểu tổng vốn đầu tư công từ 60-70% được sử dụng cho hệ thống y tế tại xã, phường, đồng thời quy định hệ số ưu tiên đầu tư theo vùng, trong đó những vùng khó khăn được ưu tiên mức đầu tư cao hơn từ 1,3-1,5 lần theo thực tiễn của từng địa phương”.
Phân tích căn cơ, lượng hóa rõ ràng từng chỉ tiêu
Liên quan đến nhóm chỉ tiêu liên quan đến dinh dưỡng, ĐBQH Trần Thị Nhị Hà chỉ rõ, Dự thảo Nghị quyết đưa ra mục tiêu “Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 giảm xuống dưới 15% và đến năm 2035 giảm xuống dưới 13%”. Theo đại biểu, việc Dự thảo Nghị quyết đưa ra mục tiêu phù hợp với tiêu chuẩn chung của thế giới nhưng đây lại là một thách thức lớn trong triển khai thực hiện vì theo báo cáo gần nhất trên cơ sở số liệu điều tra toàn quốc, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi của Việt Nam là 18,2% (tương đương khoảng 1,3 triệu trẻ), tập trung chủ yếu tại các khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng núi phía bắc là 37,4%, Tây Nguyên là 28,8%.
Quang cảnh thảo luận tại Tổ 1
Đại biểu phân tích, để giảm được tỷ lệ xuống dưới 15% trong giai đoạn 5 năm sắp tới cần phải ưu tiên thực hiện ngay các can thiệp dinh dưỡng như bổ sung vi chất, hỗ trợ dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ, giám sát dinh dưỡng định kỳ và can thiệp sớm. Kinh nghiệm của WHO và WB và một số quốc gia trên thế giới, để thực hiện được mục tiêu này cần phải có một khoản trong chi thường xuyên để chi trực tiếp cho các can thiệp dinh dưỡng. Chi phí hàng năm theo tính toán của WB đối với Việt Nam khoảng từ 1.200 đến 1.500 tỷ mỗi năm.
Vì vậy, đại biểu kiến nghị bổ sung mục tiêu “Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 giảm xuống dưới 15% và đến năm 2035 giảm xuống dưới 13%. Ưu tiên giảm nhanh tại các vùng có tỷ lệ cao, khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”. Đồng thời, đại biểu cũng đề nghị bổ sung quy định việc phân bổ kinh phí thường xuyên từ 10-12%/1 năm dành riêng cho việc chi trả việc bổ sung dinh dưỡng và phòng chống thấp còi trong đó ưu tiên 80% cho vùng khó khăn, miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số.
Về tổng thể, ĐBQH Trần Thị Nhị Hà đánh giá hồ sơ Dự thảo Nghị quyết hiện chưa làm rõ được hiện trạng của các lĩnh vực gắn với từng mục tiêu cụ thể; Tờ trình cũng chưa có phân tích đầy đủ về sự cần thiết phải xây dựng mục tiêu, chưa so sánh với các tiêu chuẩn, khuyến nghị quốc tế và khu vực, đặc biệt chưa dự báo được quy mô nguồn lực cần thiết để thực hiện các chỉ tiêu đề ra trên cơ sở thực trạng hiện có.
"Tôi kiến nghị phải khẩn trương hoàn thiện toàn bộ hồ sơ dự thảo, trong đó phân tích căn cơ, lượng hóa rõ ràng từng chỉ tiêu; đối chiếu với chuẩn quốc tế; xác định rõ yêu cầu về nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất; và bảo đảm cân đối được các nguồn lực ngay từ đầu. Chúng ta tuyệt đối tránh tình trạng sau khi ban hành lại phải điều chỉnh quy định, điều chỉnh thang đánh giá chỉ để đạt được số liệu đã đề ra. Một Nghị quyết của Quốc hội phải là cam kết thực chất, khả thi, có cơ sở khoa học và có tính ràng buộc đủ mạnh để tổ chức thực hiện", ĐBQH Trần Thị Nhị Hà nhấn mạnh.
Phi Long