Điểm mới đáng chú ý là Chính phủ đề xuất tích hợp 3 Chương trình mục tiêu quốc gia riêng lẻ trước đây thành 1 Chương trình duy nhất. Đa số các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đồng tình với chủ trương “tuy 3 mà 1” nhằm tránh dàn trải, lãng phí.
Tuy nhiên, tính khả thi của nguồn vốn đối ứng từ địa phương nghèo và những bất cập trong cơ chế "lồng ghép" nguồn lực là những vấn đề được các đại biểu quan tâm trong phiên họp chiều nay.
Đại biểu Nguyễn Hoàng Mai phát biểu thảo luận.
Ghi nhận tại Tổ đại biểu Đoàn ĐBQH 2 tỉnh Đồng Tháp và Quảng Ngãi, các đại biểu đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ khi trình Quốc hội chủ trương tích hợp 3 Chương trình mục tiêu quốc gia: Nông thôn mới, Giảm nghèo bền vững và Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số thành một chương trình tổng thể.
Việc này được kỳ vọng sẽ giải quyết dứt điểm tình trạng “manh mún”, chồng chéo trong quản lý vốn và triển khai dự án đã tồn tại ở các nhiệm kỳ trước.
Tuy nhiên, đi sâu vào cơ chế thực hiện, nhiều ý kiến bày tỏ lo ngại về tính thực tế của quy định "lồng ghép các nguồn lực". Theo các đại biểu, cụm từ "lồng ghép" nghe rất hợp lý về mặt lý thuyết, nhưng khi triển khai xuống cơ sở lại là bài toán vô cùng nan giải, thậm chí gây ách tắc vì vướng các quy định tài chính khác nhau.
Đại biểu Phạm Văn Hòa phát biểu thảo luận.
Đại biểu Nguyễn Hoàng Mai, Đoàn ĐBQH Tỉnh Đồng Tháp nêu rõ: "Câu chuyện lồng ghép các nguồn lực giữa các chương trình mục tiêu quốc gia chúng ta đã bàn nhiều nhưng thực tế thì vô cùng khó khăn trong vấn đề lồng ghép.
Do đó, tôi đề nghị không quy định lồng ghép, mà chỉ quy định một nguyên tắc các chương trình mục tiêu quốc gia, làm sao các hoạt động cụ thể, các dự án không được trùng lặp.
Bên cạnh cơ chế vận hành, bài toán tài chính là vấn đề được nhiều đại biểu đề cập. Theo Tờ trình, tổng nguồn vốn thực hiện Chương trình giai đoạn 2026 - 2030 dự kiến rất lớn, trong đó vốn ngân sách địa phương đối ứng chiếm tỷ trọng không nhỏ.
Nhiều đại biểu thẳng thắn chỉ rõ, chương trình chủ yếu hướng đến vùng lõi nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi - nơi mà thu ngân sách địa phương vốn đã hạn hẹp. Việc quy định cứng tỷ lệ vốn đối ứng cao sẽ đẩy các tỉnh nghèo vào thế "lực bất tòng tâm", có nguy cơ không thể tiếp cận được nguồn vốn Trung ương do không có tiền đối ứng.
Quang cảnh thảo luận tại Tổ.
Đại biểu Phạm Văn Hòa, Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp cho rằng: "Vốn ngân sách địa phương cấp tỉnh và cấp xã là 400 ngàn tỷ, chiếm 33%. Tôi cho rằng đây là khó khăn cho địa phương. Các tỉnh ví dụ như Đồng Tháp chúng tôi thì đâu có dân tộc, chỉ còn hộ nghèo thôi. Nhưng bây giờ tính chung như vậy thì sẽ ảnh hưởng đến những tỉnh có đồng bào dân tộc và miền núi. Tiền đâu đồng bào dân tộc ở các tỉnh này đối ứng? Thậm chí các xã nữa. Cho nên, tôi đề nghị về ngân sách địa phương cấp tỉnh, cấp xã sắp tới đây phải tách ra rõ ràng, cụ thể".
Cũng tại phiên thảo luận, các đại biểu cũng đặt dấu hỏi về tính khả thi của các mục tiêu cụ thể. Ví dụ như chỉ tiêu phấn đấu 80% số hộ nông dân người dân tộc thiểu số làm kinh tế nông nghiệp hàng hóa, hay việc giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức thấp kỷ lục vào năm 2030.
Đại biểu cho rằng, việc đặt mục tiêu quá cao trong khi nguồn lực huy động từ doanh nghiệp và cộng đồng (dự kiến gần 350 ngàn tỷ đồng) là con số "trong mơ" so với thực tế giai đoạn vừa qua, sẽ dẫn đến rủi ro chương trình không về đích đúng hạn.
Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo cần làm rõ lộ trình cụ thể cho giai đoạn 2031 - 2035, có mục tiêu cho 5 năm đầu nhưng lại bỏ ngỏ chỉ tiêu cho 5 năm cuối của chương trình.
Những băn khoăn này sẽ tiếp tục được Quốc hội thảo luận tại hội trường trong những ngày tới, nhằm đảm bảo mỗi đồng vốn bỏ ra thực sự mang lại diện mạo mới cho nông thôn và miền núi Việt Nam.
THU HOÀI - MINH TRÍ