Tạo đột phá chiến lược, ưu tiên nguồn lực
Sau 17 năm thi hành, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Công nghệ cao đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Các chính sách thúc đẩy nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ cao chưa thu hút được các doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia. Việc phát triển các khu công nghệ cao chưa đi liền với hệ sinh thái nghiên cứu phát triển, vườn ươm công nghệ, viện nghiên cứu, doanh nghiệp khởi nghiệp…
Không chỉ vướng mắc về các quy định pháp luật, việc tổ chức thực hiện cũng chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh phân cấp trong quản lý nhà nước đối với hoạt động công nghệ cao và đối với khu công nghệ cao, đây cũng là một trong những rào cản cần gỡ bỏ để bảo đảm thúc đẩy công nghệ cao phát triển.
Đặc biệt, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã xác định rõ định hướng phát triển công nghệ cao gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều này, đặt ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ cao.
Để sớm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc này, dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) đã xác định công nghệ cao, công nghệ chiến lược là đột phá chiến lược, ưu tiên nguồn lực nghiên cứu phát triển và thương mại hóa gắn với chuyển đổi số. Nhằm tạo chính sách phát triển công nghệ cao và công nghệ chiến lược, dự thảo Luật quy định, Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ tăng cường liên kết giữa viện nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp nhằm tạo nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo vững chắc; áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển, nội địa hóa, làm chủ và ứng dụng công nghệ, hình thành và phát triển doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ chiến lược và doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ cao.
Cùng với đó, Nhà nước có chính sách ưu đãi và cơ chế đặc thù để thu hút, phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao, tạo điều kiện môi trường sống, môi trường làm việc thuận lợi nhất cho nhân lực công nghệ cao làm việc tại Việt Nam. Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ hoạt động thử nghiệm công nghệ cao, công nghệ chiến lược và áp dụng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, triển khai sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao, công nghệ chiến lược…
Tại phiên thảo luận, các đại biểu đều đồng tình sự cần thiết sửa đổi Luật Chuyển giao công nghệ, để dự thảo Luật khi được ban hành sẽ tạo ra hành lang pháp lý vững chắc, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động chuyển giao công nghệ, phục vụ công cuộc phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
Các đại biểu Quốc hội thảo luận tại nghị trường
Xác định rõ đối tượng được ưu tiên, hỗ trợ
Góp ý về dự thảo Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi) tại nghị trường, đại biểu Dương Khắc Mai (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng) cho rằng về khái niệm “công nghệ mới” tại khoản 4 Điều 2, dự thảo chủ yếu mô tả mang tính định tính, thiếu căn cứ đánh giá cụ thể. Đại biểu đề nghị bổ sung tiêu chí nhận diện như: mức độ khác biệt về nguyên lý, quy trình hoặc chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật so với công nghệ hiện đang được sử dụng phổ biến; mức độ phổ biến trên phạm vi thế giới và trong nước, “Đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết tiêu chí, phương pháp phân loại công nghệ mới theo từng lĩnh vực. Điều này giúp cơ quan nhà nước và doanh nghiệp có căn cứ thống nhất khi xác định đối tượng được ưu tiên, hỗ trợ”, đại biểu kiến nghị.
Về khái niệm “công nghệ xanh” tại khoản 5a Điều 2, đại biểu Dương Khắc Mai nhận định, dự thảo sử dụng các cụm từ “sử dụng hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải, thân thiện với môi trường, góp phần phát triển bền vững”. Đại biểu hoàn toàn thống nhất với những tiêu chí nêu trong dự thảo, nhưng cũng băn khoăn, nếu chỉ dừng ở mô tả, khi áp dụng để xác định đối tượng được ưu đãi thuế, tín dụng, đất đai, hay khi thẩm định dự án đầu tư sẽ rất khó khăn, mỗi địa phương có thể hiểu khác nhau.
“Do đó, tôi đề nghị luật chỉ xác lập nguyên tắc chung về công nghệ xanh gắn với mục tiêu tiết kiệm tài nguyên, giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường; đồng thời giao Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành bộ tiêu chí, chỉ số và ngưỡng kỹ thuật cho từng ngành, từng loại hình sản xuất làm cơ sở pháp lý cụ thể. Ngoài ra, để bảo đảm thống nhất, nên sử dụng một thuật ngữ “công nghệ xanh” trong toàn bộ luật, không dùng song song “công nghệ xanh” và “công nghệ sạch” với phạm vi điều chỉnh trùng lặp”, đại biểu Dương Khắc Mai đề xuất.
Cũng quan tâm đến lĩnh vực công nghệ xanh, đại biểu Nguyễn Văn Huy (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hưng Yên) nhấn mạnh, khái niệm công nghệ xanh cần phải được đưa vào luật để bổ sung, mở rộng phạm vi công nghệ điều chỉnh phù hợp với xu thế thế giới và yêu cầu thực tiễn, và mở rộng đối tượng công nghệ được khuyến khích chuyển giao, và thể chế chính sách, tạo động lực tài chính, thể chế pháp lý cho chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó, dự thảo đã nêu được mục tiêu cốt lõi của công nghệ xanh là sử dụng hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải, thân thiện với môi trường và gắn với mục tiêu cuối cùng là phát triển bền vững. Tuy nhiên cách giải thích trong dự thảo luật về công nghệ xanh còn mang tính mô tả về mục tiêu, chưa xác định rõ phạm vi công nghệ, chưa phân biệt giữa công nghệ sản xuất, công nghệ xử lý, công nghệ hỗ trợ hay giải pháp quản lý. Điều này có thể dẫn đến cách hiểu khác nhau và gây khó khăn khi áp dụng chính sách ưu đãi.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hầu hết các nước đều gắn công nghệ xanh với các chuẩn mực kỹ thuật và đánh giá theo vòng đời sản phẩm.
“Do đó tôi đề nghị không bỏ khái niệm này mà đề nghị quy định theo hướng như sau: Công nghệ xanh là công nghệ được thiết kế, phát triển và ứng dụng nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, giảm thiểu phát thải và chất thải trong toàn bộ vòng đời sản phẩm hoặc là quy trình sản xuất, thân thiện với môi trường và góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững”, đại biểu Nguyễn Văn Huy đề xuất.
Hương Giang