Vướng đủ đường
Theo Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, công suất đặt điện khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) nhập khẩu của Việt Nam sẽ tăng từ 0,8 GW lên 22,5 GW, với 15 dự án đi vào hoạt động, chiếm khoảng 12,3% tổng công suất nguồn điện đến năm 2030. Đây là tỷ trọng không nhỏ, được coi là chìa khóa để thay thế dần nhiệt điện than, tạo độ linh hoạt khi tỷ trọng năng lượng tái tạo tăng cao.
Thực tế, triển khai lại cho thấy một kịch bản trái ngược: hàng loạt dự án đang chậm trễ, tiến độ ì ạch. Điển hình như dự án LNG Quảng Ninh trị giá 2,2 tỷ USD đến nay vẫn vướng mặt bằng; UBND tỉnh Quảng Ninh vừa ra tối hậu thư cảnh báo cưỡng chế nếu chủ đất không bàn giao.
Dự án LNG Cà Ná với công suất 1.500 MW, buổi mở thầu tháng 7 chỉ có duy nhất một nhà đầu tư tham gia, chào giá tới 12,83 UScents/kWh - một mức giá cao phản ánh rõ ràng rủi ro chính sách và tài chính.
Những cái tên từng được kỳ vọng lớn như LNG Sơn Mỹ I - II (Lâm Đồng) cùng kho cảng LNG Sơn Mỹ hiện vẫn chủ yếu nằm trên giấy khi thủ tục pháp lý và thu xếp vốn chưa thông. Dự án Nghi Sơn LNG với vốn đầu tư dự kiến khoảng 57.000 - 58.000 tỷ đồng (khoảng 2,2 tỷ USD) và công suất 1.500 MW được xem là mắt xích quan trọng trong Quy hoạch điện VIII điều chỉnh.
Tuy nhiên, sau hai lần phát hành hồ sơ mời thầu và hai lần gia hạn, dự án đã bị hủy thầu do không có nhà đầu tư nào nộp hồ sơ.
Nằm trong danh mục dự án vận hành đến năm 2030 nhưng đến nay, dự án LNG Quảng Ninh trị giá 2,2 tỷ USD vẫn còn ì ạch trong khâu giải phóng mặt bằng.
Đặc biệt, một dự án khác đang “án binh bất động” qua nhiều năm là Nhà máy LNG Bạc Liêu trên bờ (công suất 3.200 MW, vốn đầu tư khoảng 4 tỷ USD). Được cấp giấy chứng nhận đầu tư từ tháng 1/2020, dự kiến khởi động giai đoạn 1 cuối năm 2023 và hoàn thành toàn bộ dự án năm 2027. Thế nhưng, sau hơn 5 năm, dự án vẫn chưa thể khởi công. Lý do chủ yếu là chưa hoàn thành giải phóng mặt bằng khu đất thực hiện dự án hiện còn bỏ trống, cùng nhiều thủ tục bồi thường, đền bù chưa được xử lý dứt điểm.
Một trong những điểm sáng của điện khí LNG là dự án LNG Nhơn Trạch 3-4. Đầu năm nay, Nhơn Trạch 3 hòa lưới và cuối tháng 6, Nhơn Trạch 4 phát dòng điện đầu tiên từ LNG nhập khẩu đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam phát điện từ LNG.
Chuỗi LNG Thị Vải đã khép kín vòng cung nhập - chứa - phân phối, cùng hợp đồng cung ứng LNG dài hạn 25 năm cho Nhơn Trạch 3-4. Song, các dự án còn vướng mắc, vướng cơ chế bao tiêu LNG dài hạn, cơ chế đàm phán trực tiếp giữa Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) với nhà cung cấp vẫn chưa có, thị trường nhỏ và phân tán khiến sức mua yếu, vị thế đàm phán thấp.
Nếu không tháo gỡ, quy hoạch chỉ nằm trên giấy
Nói về vướng mắc dự án LNG Nghi Sơn, ông Nguyễn Thái Hà - Tổng Giám đốc T&T Group - cho rằng, một trong những rào cản lớn của dự án LNG là yêu cầu bảo lãnh dự thầu lên tới 1% tổng đầu tư, tương đương khoảng 22 triệu USD.
“Ngay cả khi trúng thầu, nhà đầu tư vẫn phải đàm phán lại với tỉnh và EVN về hợp đồng mua bán điện. Nghĩa là, trúng thầu không đồng nghĩa với được triển khai ngay. Với điều kiện dự thầu như thế này, không nhà đầu tư nào muốn tham dự”, ông Hà nói.
Cùng quan điểm, ông Phạm Hữu Hiển - Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Năng lượng Bình Phước - chỉ rõ rằng, các dự án LNG ở Việt Nam hiện khó thu hút vốn bởi hợp đồng mua bán điện hiện nay đưa ra cam kết sản lượng mua điện hằng năm quá thấp. “Nhà đầu tư không chứng minh được dòng tiền ổn định để vay vốn, trong khi giá LNG lại biến động cao. Chôn vốn vào các dự án như vậy chẳng khác nào tự đẩy mình vào thế khó”, ông Hiển nói.
Dự án LNG Nhơn Trạch 3-4 trở thành điểm sáng, song vẫn gặp nhiều vướng mắc về cơ chế.
Theo các doanh nghiệp, không bị tắc ở công nghệ hay kỹ thuật, các dự án LNG ở Việt Nam hiện còn vướng ở rủi ro hợp đồng và chính sách. Tranh cãi lớn nhất xoay quanh phí công suất. Các nhà đầu tư coi đây là điều kiện bắt buộc để bù chi phí cố định rất cao, đặc biệt trong bối cảnh hệ thống có thể không huy động tối đa. Ngược lại, cơ quan quản lý lo ngại điều này tạo bất bình đẳng và đẩy gánh nặng sang bên mua điện, cuối cùng là người tiêu dùng.
Trao đổi với PV Tiền Phong, một chuyên gia thuộc Hiệp hội Năng lượng Việt Nam thẳng thắn chỉ ra: “Chúng ta đặt mục tiêu rất lớn với điện khí LNG, nhưng hiện nay khi cơ chế chưa rõ, lưới chưa sẵn, hạ tầng, cảng chưa xong, thì nguồn điện LNG khó lòng hiện thực hóa".
Theo vị chuyên gia, điện khí LNG là mắt xích quan trọng trong giai đoạn chuyển dịch năng lượng và để triển khai một dự án cần tối thiểu 7-10 năm nhưng nếu chậm trễ kéo dài, đến năm 2030, con số 22.400 MW LNG trong Quy hoạch điện VIII điều chỉnh có nguy cơ chỉ còn là một “mốc treo”.
Hệ lụy không chỉ là thiếu hụt nguồn điện nền, mà còn làm suy yếu cả tiến trình phát triển năng lượng tái tạo. Do đó, vị chuyên gia cho rằng, cần sớm có quy định về phí công suất minh bạch; thiết kế cơ chế chia sẻ nghĩa vụ bao tiêu LNG rõ ràng giữa hợp đồng mua bán khí và hợp đồng mua bán điện; bổ sung điều khoản chấm dứt hợp đồng và mua lại dự án để ngân hàng yên tâm...
“Tiến độ dự án nguồn, lưới và cảng LNG phải được đồng bộ, không thể để xảy ra tình cảnh nguồn hoàn thành xong, lưới điện tắc, đồng thời cần một đầu mối đủ mạnh để mua LNG hoặc cơ chế hợp tác mua chung, nhằm tăng sức đàm phán”, vị này chia sẻ.
Dương Hưng