Tháo gỡ điểm nghẽn thể chế để phát triển khoa học công nghệ
Chiều ngày 7/7, Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức họp báo 5 luật quan trọng do Bộ tham mưu, chủ trì xây dựng, vừa được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV gồm Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Luật Công nghiệp Công nghệ số; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Năng lượng nguyên tử.
Đây là những đạo luật có ý nghĩa nền tảng, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong giai đoạn mới, góp phần quan trọng hoàn thành mục tiêu chiến lược của Đảng đưa đất nước trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045.
Ông Lê Xuân Định, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ phát biểu tại họp báo.
Ông Lê Xuân Định, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, mặc dù các luật này được khởi thảo từ 1–2 năm trước, nhưng nội dung đã được xây dựng lại gần như toàn diện, với tinh thần tiếp thu sâu sắc các chủ trương lớn trong Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị (ban hành ngày 22/12/2024).
Việc chỉnh sửa, bổ sung các đạo luật không chỉ để cập nhật thực tiễn mà còn thể hiện rõ quyết tâm tháo gỡ các "điểm nghẽn" thể chế – vốn lâu nay được xem là rào cản lớn trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo không chỉ cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị mà còn là bản tuyên ngôn thể hiện tầm nhìn, khát vọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia hùng cường thông qua phát triển khoa học và đổi mới sáng tạo. Lần đầu tiên, "đổi mới sáng tạo" được đặt ngang hàng với "khoa học và công nghệ", thể hiện sự thay đổi căn bản trong tư duy phát triển.
Luật Công nghiệp Công nghệ số điều chỉnh toàn diện các lĩnh vực công nghiệp công nghệ số, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), tài sản số, đồng thời có các chính sách ưu đãi đặc biệt cho những dự án trọng điểm trong các lĩnh vực này. Lần đầu tiên, chương trình "Make in Vietnam" được quy định về thiết kế, sản xuất trong nước và chuyển giao công nghệ.
Luật sửa đổi Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật cùng Luật sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa đánh dấu sự đổi mới toàn diện trong tư duy và phương thức quản lý. Việc quản lý tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng chuyển căn bản từ hành chính sang quản lý theo rủi ro, từ tiền kiểm sang hậu kiểm dựa trên dữ liệu và công nghệ, từ khuyến khích sang ràng buộc trách nhiệm, minh bạch và có chế tài xử lý nghiêm minh.
Luật Năng lượng nguyên tử sửa đổi nhằm tạo lập khuôn khổ pháp lý toàn diện, phù hợp với hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA). Luật xác định điện hạt nhân là chiến lược quốc gia, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng và giảm phát thải carbon.
Các đạo luật này không chỉ là nền tảng pháp lý để triển khai hiệu quả các chính sách chiến lược quốc gia về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, mà còn đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong quản lý nhà nước.
Đặc biệt, trong bối cảnh hệ thống chính quyền hai cấp đang bước vào giai đoạn vận hành thực tiễn, Bộ Khoa học và Công nghệ kỳ vọng với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp, các nhà khoa học, và đặc biệt là sự hỗ trợ tích cực từ các cơ quan báo chí, nội dung cốt lõi của năm đạo luật sẽ được lan tỏa rộng rãi.
Điểm mới của 5 luật vừa được thông qua
Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (có hiệu lực từ ngày 01/10/2025) thể hiện sự thay đổi căn bản trong tư duy phát triển, lần đầu tiên đưa đổi mới sáng tạo (ĐMST) vào luật và đặt ngang hàng với khoa học công nghệ (KHCN). ĐMST được xác định là động lực then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.
ĐMST được kỳ vọng đóng góp 3% vào tăng trưởng GDP, trong khi KHCN chỉ đóng góp 1%. Luật cũng chuyển trọng tâm quản lý từ kiểm soát đầu vào sang quản lý kết quả, đánh giá hiệu quả đầu ra, cho phép tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu sở hữu kết quả nghiên cứu để thương mại hóa, được hưởng tối thiểu 30% thu nhập từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu mang lại. Các quy định này tạo động lực đổi mới, tinh thần dám nghĩ, dám làm trong nghiên cứu, nghiên cứu hướng đến kết quả thực tiễn, gắn kết chặt chẽ giữa KHCN với phát triển kinh tế - xã hội.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (có hiệu lực từ ngày 01/01/2026) thể hiện tư duy quản lý mới, chuyển từ mô hình quản lý hành chính sang quản lý chất lượng theo rủi ro; từ phương thức tiền kiểm sang hậu kiểm dựa trên dữ liệu và công nghệ số; từ cơ chế khuyến khích sang ràng buộc trách nhiệm, minh bạch và có chế tài xử lý nghiêm.
Lần đầu tiên Luật yêu cầu thiết lập hệ thống giám sát chất lượng sản phẩm, hàng hóa quốc gia, kết nối dữ liệu liên ngành, hỗ trợ hậu kiểm, xử lý rủi ro chất lượng. Đồng thời, quy định quản lý rõ ràng đối với hàng hóa kinh doanh trên nền tảng số, tăng cường trách nhiệm của người bán và nền tảng trung gian trong bảo đảm chất lượng và xử lý phản ánh của người tiêu dùng.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (có hiệu lực từ ngày 01/01/2026) đánh dấu sự đổi mới toàn diện trong tư duy và phương thức quản lý lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng.
Lần đầu tiên, Chiến lược tiêu chuẩn quốc gia được luật hóa như một công cụ định hướng dài hạn; đồng thời thiết lập Cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng. Luật cũng quy định nguyên tắc "một sản phẩm – một quy chuẩn" trên toàn quốc, chấm dứt chồng chéo quản lý và tăng hiệu quả thực thi. Đặc biệt, cơ chế thừa nhận đơn phương kết quả đánh giá quốc tế sẽ giúp doanh nghiệp công nghệ cao tiếp cận nhanh thị trường.
Luật Công nghiệp công nghệ số (có hiệu lực từ ngày 01/01/2026) là bước ngoặt lớn trong việc thiết lập khung pháp lý cho các lĩnh vực mới như công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo và tài sản số. Luật CNCNS quy định chiến lược phát triển chip chuyên dụng, liên kết chuỗi cung ứng toàn cầu. Đối với AI, luật đưa ra nguyên tắc "lấy con người làm trung tâm", yêu cầu sản phẩm công nghệ số AI phải có dấu hiệu nhận dạng, Nhà nước dành chính sách ưu đãi cao nhất cho thúc đẩy nghiên cứu, phát triển, triển khai, sử dụng trí tuệ nhân tạo.
Đây cũng là lần đầu tiên tài sản số bao gồm tài sản ảo và tài sản mã hóa được bảo đảm quyền sở hữu, giao dịch và bảo mật. Hạ tầng số thiết yếu như trung tâm dữ liệu AI, khu công nghệ số tập trung, và phòng thí nghiệm quốc gia được ưu tiên đầu tư, tạo nền tảng cho sự phát triển mạnh mẽ của chuyển đổi số, kinh tế số Việt Nam.
Luật Năng lượng nguyên tử sửa đổi (có hiệu lực từ ngày 01/01/2026) tạo lập khung pháp lý toàn diện, phù hợp với hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA). Luật xác định điện hạt nhân là chiến lược quốc gia, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng, giảm phát thải carbon.
Một điểm mới quan trọng là quản lý an toàn, an ninh hạt nhân được thống nhất bởi một cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo tiêu chuẩn quốc tế và quản lý toàn bộ vòng đời nhà máy. Luật cũng có riêng một chương về an toàn cơ sở hạt nhân và thúc đẩy ứng dụng NLNT trong y tế, nông nghiệp, công nghiệp, hướng tới làm chủ công nghệ và chuyển đổi số toàn diện trong lĩnh vực này.
Tô Hội