Chăm sóc cho nạn nhân chất độc da cam/dioxin. (Ảnh: TTXVN)
Trong 10 năm, từ 1961-1971, Mỹ đã rải xuống miền nam Việt Nam khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học, trong đó có khoảng 60% là chất độc da cam chứa hàm lượng cực độc dioxin, gây nên một thảm họa chưa từng có trong lịch sử loài người: Khoảng 4,8 triệu người Việt Nam đã bị phơi nhiễm chất độc hóa học, khoảng 3 triệu người là nạn nhân chất độc da cam.
Chất độc da cam/dioxin không chỉ ảnh hưởng nặng nề tới sức khỏe của những người tham gia kháng chiến mà còn gây ra tai biến sinh sản, dị dạng, dị tật bẩm sinh, mù, câm, điếc, thiểu năng trí tuệ, tâm thần, ung thư... đối với thế hệ sau.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chế độ, chính sách đối với người có công với cách mạng; trong đó, chính sách dành cho người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và con đẻ của họ được quy định rõ trong Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng số 26/2005/PL-UBTVQH11; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng số 04/2012/PL-UBTVQH13; Nghị định số 131/2021/NĐ-CP.
Tuy nhiên, theo kết quả thống kê chưa đầy đủ, tính đến hết năm 2024, cả nước có hơn 35.000 nạn nhân thuộc thế hệ thứ ba (đời cháu) và hơn 6.000 nạn nhân thuộc thế hệ thứ tư (đời chắt).
Khoảng 4,8 triệu người Việt Nam đã bị phơi nhiễm chất độc hóa học, khoảng 3 triệu người là nạn nhân chất độc da cam. Theo kết quả thống kê chưa đầy đủ, tính đến hết năm 2024, cả nước có hơn 35.000 nạn nhân thuộc thế hệ thứ ba (đời cháu) và hơn 6.000 nạn nhân thuộc thế hệ thứ tư (đời chắt).
Trong khi đó, đối tượng được thụ hưởng chính sách theo quy định của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng chỉ dừng lại ở thế hệ thứ hai (con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học).
Thế hệ thứ ba chưa được hưởng chế độ nạn nhân da cam mà được hưởng theo chế độ bảo trợ xã hội của Luật Người khuyết tật, nhưng cũng chỉ có những trường hợp khuyết tật nặng và đặc biệt nặng mới được. Do vậy, có rất ít nạn nhân da cam được hưởng chế độ, chính sách này và mức hưởng cũng rất thấp.
Ông Cao Khánh Hòa (sinh năm 1951, tại xã Ứng Thiên, thành phố Hà Nội) tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc da cam. Ông có 4 người con, trong đó 2 người là nạn nhân chất độc da cam. Đến nay, ông có 6 người cháu, trong đó có cháu nội Cao Minh Quang (sinh năm 2006) có biểu hiện rõ ràng: Dù đã 19 tuổi nhưng vì chậm phát triển về trí tuệ nên cháu không thể đi học như bao bạn bè cùng trang lứa; cộng với bệnh tim bẩm sinh và bệnh nang niệu rốn, cho nên phải dùng thuốc định kỳ; việc sinh hoạt hằng ngày vẫn cần có sự hỗ trợ của gia đình. Hiện, cháu Quang đang được hưởng chế độ bảo trợ xã hội theo diện người khuyết tật, với số tiền trợ cấp hơn 700.000 đồng/tháng.
Theo ông Trần Văn Quang, Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin thành phố Hà Nội, hiện nay, tính chưa đầy đủ trên địa bàn thành phố có gần 300 trường hợp là nạn nhân chất độc da cam thế hệ thứ ba.
Hội đã kiến nghị với Sở Lao động-Thương binh và Xã hội (trước đây), nay là Sở Nội vụ, để đề xuất với Đảng, Nhà nước nghiên cứu có một chế độ, chính sách nào đó phù hợp hơn với các nạn nhân thế hệ thứ ba, thứ tư.
Hội đề xuất ngoài việc hưởng bảo trợ xã hội theo Luật Người khuyết tật cần có thêm phụ cấp thù lao để động viên đối với nhóm đối tượng này.
Bà Nguyễn Thúy Hoàn, Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin tỉnh Hưng Yên cho biết, thống kê riêng trên địa bàn tỉnh Thái Bình (trước đây) có tới hơn 700 cháu thuộc thế hệ thứ ba là nạn nhân chịu di chứng của chất độc da cam. Nhiều cháu không thể tự chăm sóc bản thân, không chỉ cần người hỗ trợ mà kéo theo đó là gánh nặng về kinh tế, bệnh tật.
Số tiền trợ cấp từ chế độ bảo trợ xã hội theo Luật Người khuyết tật chưa đủ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hằng ngày cũng như điều trị phục hồi đặc biệt dành cho nạn nhân da cam.
Thiếu tướng Đỗ Hồng Lâm, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam nhận định: Vấn đề về tâm lý khi chưa được Nhà nước công nhận là nạn nhân da cam cũng tác động không nhỏ tới đời sống tinh thần của các gia đình có nạn nhân thuộc thế hệ thứ ba.
Từ thực tiễn này, nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước cũng đã ban hành các chỉ thị, quyết định đề cập đến vấn đề hoàn thiện thể chế, chính sách hỗ trợ nạn nhân da cam, kể cả thế hệ sau.
Các văn bản này đều đề cập việc cần nghiên cứu, thực hiện chế độ, chính sách đối với người bị ảnh hưởng bởi chất độc hóa học thế hệ thứ ba. Tuy nhiều lần được đưa ra bàn thảo, nhưng đến nay việc đưa thế hệ thứ ba của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc da cam vào đối tượng được thụ hưởng chính sách đối với người có công vẫn chưa được thực thi.
Theo ông Lâm, một trong những yếu tố đầu tiên tác động đến xây dựng chính sách hỗ trợ chính là vấn đề về nhận thức. Nhiều ý kiến chưa đồng thuận trong việc đưa thế hệ thứ ba vào Pháp lệnh Ưu đãi người có công vì không thể coi đó là người có công.
Nhiều cơ quan chuyên môn chưa có được sự đồng thuận cao về cơ sở khoa học và thực tiễn trong việc xác định danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật do chất độc hóa học gây ra đối với thế hệ thứ ba này.
Từ khi thành lập vào năm 2004, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam đã kêu gọi, huy động gần 5.000 tỷ đồng để hỗ trợ các nạn nhân, trong đó quan tâm hỗ trợ đến các thế hệ thứ ba, thứ tư. Tuy nhiên, để thế hệ thứ ba của những nạn nhân nhiễm chất độc hóa học có điểm tựa vững chắc thì việc sớm ban hành chế độ, chính sách là điều vô cùng cần thiết; nhằm bảo đảm sự bền vững trong chăm sóc, hỗ trợ, giúp các gia đình vơi bớt nỗi đau chiến tranh, vươn lên trong cuộc sống.
Trung ương Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam cho biết, thời gian tới sẽ tiếp tục điều tra để có thống kê đầy đủ nhất về số lượng nạn nhân qua các thế hệ, từ đó đề xuất, kiến nghị cơ quan nhà nước có chính sách thỏa đáng cho thế hệ thứ ba; đồng thời, nâng cao vai trò của các cấp hội trong việc vận động hỗ trợ, chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân.
Sự chung tay vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và từng người dân chính là điểm tựa vững chắc để không một nạn nhân nào bị bỏ sót, không một ai bị bỏ lại phía sau.
THANH DUNG