Dự án giúp doanh nghiệp lâm nghiệp đổi mới kỹ thuật, quản lý rừng hiệu quả, tăng thêm cơ hội cho phát triển rừng gỗ lớn.
Chuyển đổi tư duy trồng rừng
Năm 2022, Dự án SFM đã tư vấn Công ty TNHH Lâm nghiệp Sông Kôn tỉa thưa 2 ha keo lai trồng từ năm 2017 tại xã Bình Hiệp, giảm mật độ từ 2.455 cây/ha xuống 800 cây/ha. Sau đó, Công ty tiếp tục được hướng dẫn trồng xen lim xanh - cây bản địa có giá trị kinh tế cao - theo mật độ 2:8 (2 phần keo lai và 8 phần lim xanh).
Cây lim xanh 3 năm tuổi được trồng xen trong rừng keo lai của Công ty TNHH Lâm nghiệp Sông Kôn. Ảnh: N.N
Ông Hồ Văn Hể - Giám đốc Công ty TNHH Lâm nghiệp Sông Kôn - cho biết, chuyển sang rừng gỗ lớn là bước đi chiến lược, vừa nâng giá trị kinh tế lâu dài, vừa gắn với phát triển bền vững. SFM đã giúp Công ty tiếp cận kỹ thuật lâm sinh tiên tiến, mở hướng nhân rộng.
Qua theo dõi, Công ty nhận thấy tỉa thưa chuyển hóa rừng mang lại hiệu quả rõ rệt, khi gỗ thu được từ lần tỉa đầu tiên không chỉ bù chi phí mà còn chọn lọc những cây có phẩm chất tốt để phát triển thành gỗ lớn.
Việc trồng xen kẽ các loài cây bản địa sinh trưởng chậm hơn như lim xanh cùng với keo lai tạo nên hệ thống lâm nghiệp tích hợp, mang lại dòng thu nhập ở những giai đoạn khác nhau.
Ngoài mục tiêu cung cấp gỗ xẻ với giá trị kinh tế cao, việc trồng xen canh cây bản địa nhằm nâng cao khả năng chống chịu của rừng trồng và đa dạng hóa nguồn thu từ gỗ trong tương lai, bảo vệ môi trường như cải thiện độ màu mỡ của đất, kiểm soát xói mòn và hấp thụ carbon.
Từ những kết quả ban đầu, tháng 10-2023, Công ty TNHH Lâm nghiệp Sông Kôn tiếp tục tỉa thưa thêm 8 ha, giữ mật độ 800 cây/ha. Năm 2024, Công ty chủ động tỉa thưa lần 2, còn 400 cây keo lai và 200 cây lim xanh/ha; dự kiến trong năm 2025 sẽ tiếp tục tỉa để tạo không gian cho lim xanh phát triển. Kế hoạch sắp tới là nhân rộng mô hình với quy mô 50 ha.
Ông Nguyễn Ngọc Đạo - Chủ tịch Công ty TNHH Lâm nghiệp Sông Kôn - thông tin: Kết quả Công ty đạt được đã thuyết phục một số chủ rừng bỏ dần mô hình trồng dày với cây chất lượng thấp chuyển sang trồng thưa, tập trung vào cây có chất lượng cao; đồng thời kết hợp xen canh cây gỗ quý bản địa có giá trị cao ở nhiều mặt.
Mở đường cho chiến lược 1 triệu ha rừng gỗ lớn
Công ty TNHH Lâm nghiệp Quy Nhơn cũng tham gia dự án SFM và trồng 4 ha rừng gỗ lớn tại tiểu khu 352 (phường Quy Nhơn Tây); sau 3 năm đã đạt được chỉ số 75 m³ gỗ/ha.
Công ty đã đưa thiết bị bay không người lái (UAV) giám sát thay cho nhân viên tuần tra trực tiếp. Nhờ đó có điều kiện để tăng diện tích giám sát gấp 11 lần, rút ngắn thời gian 3,5 lần, chi phí giảm mạnh.
Giám đốc Công ty TNHH Lâm nghiệp Quy Nhơn Ngô Văn Tỉnh cho biết, Công ty đặt mục tiêu mở rộng diện tích rừng gỗ lớn lên 1.000 ha vào năm 2030, góp phần giảm phụ thuộc gỗ nhập khẩu.
Một kết quả quan trọng khác là dự án đã hỗ trợ 2 công ty đánh giá khả năng hấp thụ carbon. Việc kéo dài chu kỳ rừng keo từ 5 lên 11 năm giúp tăng trữ lượng carbon trung bình từ 78 lên 221 tấn CO₂/ha. Đây là cơ sở để tham gia thị trường tín chỉ carbon toàn cầu - lĩnh vực có doanh thu hàng chục tỷ USD mỗi năm.
Cán bộ kỹ thuật Công ty TNHH Lâm nghiệp Quy Nhơn thành thạo kỹ thuật tỉa thưa, tỉa cành, xác định cây ưu thế sau khi tham gia các lớp tập huấn của SFM. Ảnh: N.N
Bà Carina van Weelden - Quản lý thực hiện dự án SFM của Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức - nhấn mạnh: Rừng gỗ lớn gắn với chứng chỉ bền vững không chỉ tạo ra gỗ xẻ chất lượng cao mà còn minh bạch chuỗi sản xuất, đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường quốc tế, đặc biệt là Quy định chống phá rừng của châu Âu.
Theo kế hoạch của Chính phủ, đến năm 2030, cả nước sẽ có 1 triệu ha rừng gỗ lớn. Tuy nhiên, thực tế còn nhiều khó khăn, thách thức như: quỹ đất hạn chế, vốn đầu tư lớn, chu kỳ sản xuất dài. Trong khi đó, nhu cầu gỗ ngày càng tăng. Riêng năm 2024, Việt Nam phải nhập khẩu hơn 2,8 tỷ USD gỗ nguyên liệu.
Các mô hình từ dự án SFM cho thấy hướng đi khả thi: trồng gỗ lớn, trồng hỗn giao cây bản địa, áp dụng chứng chỉ quản lý bền vững và công nghệ giám sát hiện đại. Đây là giải pháp giúp ngành gỗ vừa nâng cao hiệu quả kinh tế, vừa góp phần giảm phát thải khí nhà kính và bảo tồn đa dạng sinh học.
Nghiên cứu của Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam chỉ ra rằng, rừng gỗ lớn có khả năng lưu trữ CO₂ gấp nhiều lần rừng gỗ nhỏ, mở ra cơ hội kép: tăng thu nhập từ gỗ chất lượng cao và lợi ích từ tín chỉ carbon.
Trong bối cảnh nhu cầu gỗ trong nước và xuất khẩu đều tăng, phát triển rừng gỗ lớn chính là con đường bền vững để Việt Nam củng cố vị thế nguồn cung gỗ lớn thứ hai châu Á.
NGỌC NGA