Thị trường nông sản: Giá lúa, gạo giảm nhẹ

Thị trường nông sản: Giá lúa, gạo giảm nhẹ
8 giờ trướcBài gốc
Nông dân xã Thanh Mỹ (Châu Thành, Trà Vinh) thu hoạch lúa vụ Đông Xuân 2023 - 2024. Ảnh tư liệu: Thanh Hòa/TTXVN
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá lúa thường tại ruộng tuần qua cao nhất là 5.450 đồng/kg, giá bình quân là 5.307 đồng/kg, giảm 64 đồng/kg. Giá lúa thường tại kho giảm trung bình 269 đồng/kg, ở mức 6.542 đồng/kg; giá cao nhất là 6.950 đồng/kg.
Giá các mặt hàng gạo cũng có sự điều chỉnh giảm. Theo đó, gạo 5% tấm có giá cao nhất 12.000 đồng/kg, giá bình quân 10.107 đồng/kg, giảm 50 đồng/kg. Gạo 15% tấm có giá cao nhất 11.600 đồng/kg, giá bình quân 9.942 đồng/kg, giảm 67 đồng/kg. Gạo 25% tấm có giá cao nhất 9.800 đồng/kg, giá bình quân 9.092 đồng/kg, giảm 133 đồng/kg.
Giá gạo xát trắng loại 1 giảm mạnh nhất với 440 đồng/kg, giá trung bình là 10.750 đồng/kg. Gạo lứt loại 1 giảm 367 đồng/kg, trung bình là 8.633 đồng/kg.
Theo cập nhật của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn An Giang, giá một số loại lúa được thương lái thu mua như: IR 50404 từ 5.400 - 5.600 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg; OM 5451 ở mức từ 5.800 - 6.100 đồng/kg, Đài thơm 8 (tươi) và OM 18 (tươi) dao động từ 6.400 - 6.600 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg…
Các địa phương Cần Thơ đang bước vào giai đoạn thu hoạch lúa tập trung. Giá nhiều loại lúa ở mức thấp hơn từ 2.000 - 2.500 đồng/kg so với vụ Đông Xuân 2023 - 2024. Hiện giá lúa dao động từ 5.000 - 7.500 đồng/kg, tùy nhóm giống lúa. Các loại lúa thuộc nhóm lúa thơm như: Đài thơm 8, RVT, Jasmine 85 và OM18 được nông dân tại các quận, huyện bán cho thương lái và các doanh nghiệp ở mức từ 6.100 - 6.400 đồng/kg, lúa ST 24 ở mức 7.500 đồng/kg. Riêng các giống lúa IR 50404, OM 380... ở mức 5.000 - 5.300 đồng/kg.
Với mặt hàng gạo trên thị trường bán lẻ tại An Giang, gạo thường có giá từ 15.000 - 16.000 đồng/kg; gạo thơm Thái hạt dài từ 20.000 - 22.000 đồng/kg; gạo Jasmine từ 18.000 - 20.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg, gạo Nàng Hoa 21.500 đồng/kg; gạo Hương Lài 22.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 21.000 đồng/kg; gạo Sóc thường dao động ở mốc 18.000 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 21.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg…
Gạo nguyên liệu IR 504 ở mức 7.900 - 8.000 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 từ 9.500 - 9.700 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 380 từ 7.550 - 7.700 đồng/kg, gạo thành phẩm OM 380 dao động ở 8.800 - 9.000 đồng/kg.
Với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm các loại dao động trong khoảng từ 5.550 - 7.300 đồng/kg. Giá tấm thơm ở mức 7.100 - 7.300 đồng/kg; giá cám khô ở mức 5.550 - 5.700 đồng/kg.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến 17/2, các địa phương Đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu thu hoạch khoảng 268.000 ha/1,49 triệu ha gieo cấy với năng suất 61 tạ/ha, sản lượng ước 1,635 triệu tấn lúa. Vụ Hè Thu 2025, các địa phương đã bắt đầu xuống giống được 100.000 ha/1,482 triệu ha diện tích kế hoạch.
Về xuất khẩu, giá gạo của Việt Nam đã giảm xuống mức thấp nhất trong nhiều tháng qua do nhu cầu yếu và nguồn cung dồi dào. Một nhà giao dịch tại tỉnh An Giang, Đồng bằng sông Cửu Long cho biết, giá giảm do nguồn cung mạnh trong khi nhu cầu vẫn còn yếu. Vụ thu hoạch Đông Xuân đã bắt đầu và dự kiến sẽ đạt đỉnh vào tháng tới. Theo các thương nhân, gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán ở mức từ 380 - 390 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ cuối tháng 8/2021, giảm so với mức 397 USD/tấn trong tuần trước.
Nhà giao dịch trên nói thêm các khách mua hàng từ Philippines vốn đã giảm tốc độ mua, nhưng đang dần quay trở lại vì họ cho rằng giá gạo Việt Nam đã chạm đáy. Việt Nam là nước xuất khẩu gạo nhiều nhất vào thị trường Philippines.
Trong khi đó, giá gạo Ấn Độ giữ ổn định gần mức thấp nhất trong 19 tháng. Giá gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ được chào bán ở mức 416 - 425 USD/tấn, không thay đổi so với tuần trước. Mức giá này là thấp nhất kể từ cuối tháng 6/2023. Giá gạo trắng 5% tấm của Ấn Độ được chào bán ở mức từ 395 - 405 USD/tấn trong tuần này.
Một nhà xuất khẩu có trụ sở tại Kolkata cho rằng nhu cầu gạo Ấn Độ giảm là do giá cả cạnh tranh của gạo Việt Nam. Bên cạnh đó, đồng rupee của Ấn Độ đã chạm mức thấp kỷ lục mới vào đầu tháng 2/2025, điều này đã làm tăng tỷ suất lợi nhuận của các thương nhân từ việc bán hàng ra nước ngoài.
Giá gạo 5% tấm của Thái Lan dao động ở mức 420 USD/tấn so với khoảng 415 - 420 USD/tấn vào tuần trước. Một thương nhân cho biết giá gạo giữ ổn định trong lúc chịu áp lực từ nguồn cung mới từ Việt Nam và đặc biệt là xuất khẩu gạo của Ấn Độ.
Một thương nhân khác cho biết nhu cầu từ các khách hàng thường xuyên như Indonesia và Philippines cũng khá trầm lắng.
Về thị trường nông sản Mỹ, giá các mặt hàng nông sản biến động trái chiều trong phiên ngày 21/2 trên Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT), trong đó giá ngô và đậu tương giảm, còn giá lúa mỳ tăng.
Khép phiên này, giá ngô giảm 7,75 xu xuống 5,05 USD/bushel. Trước khi giảm, giá ngô đã tăng 12% kể từ đầu năm 2025 đến nay. Giá đậu tương giảm 5,75 xu xuống 10,57 USD/bushel. Giá lúa mỳ tăng 3,75 xu lên 6,04 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Sau khi tăng vọt lên mức cao nhất trong 18 tháng do nhu cầu xuất khẩu mạnh mẽ của Mỹ, giá ngô đã hạ nhiệt khi các nhà giao dịch chốt lời trước cuối tuần và dự đoán cho rằng Bộ Nông nghiệp Mỹ sẽ đưa ra dự báo diện tích gieo trồng và năng suất lớn cho vụ mùa năm 2025 của Mỹ tại Diễn đàn Triển vọng Nông nghiệp thường niên vào tuần tới.
Các nhà giao dịch cho biết thêm, dự báo về mưa lớn trên diện rộng ở các khu vực canh tác của Argentina và Brazil vào tuần tới cũng gây thêm áp lực lên giá ngô giao kỳ hạn.
Các nhà giao dịch kỳ vọng giá ngô tăng gần đây sẽ khuyến khích nông dân Mỹ tăng cường trồng ngô vào mùa Xuân này, vì cây trồng này có vẻ mang lại lợi nhuận nhiều hơn so với đậu tương. Ngày 20/2, tổ chức cho vay nông nghiệp CoBank dự báo diện tích trồng ngô sẽ tăng khoảng 4% so với năm 2024, lên 94,55 triệu mẫu Anh (1 mẫu Anh = 4.047 m2).
Nhu cầu xuất khẩu gạo vẫn mạnh do giá ngô của Mỹ khá cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ, trong tuần kết thúc vào ngày 13/2, doanh số xuất khẩu ngô của Mỹ cho năm 2024 - 2025 đạt 1,45 triệu tấn. Con số này nằm trong khoảng cao của biên độ ước tính từ 900.000 tấn đến 1,6 triệu tấn của các nhà phân tích.
Các nhà giao dịch cho biết nhu cầu xuất khẩu đậu tương của Mỹ không mạnh như kỳ vọng do cạnh tranh từ nhà cung cấp hàng đầu là Brazil, quốc gia dự kiến sẽ thu hoạch một vụ mùa kỷ lục.
Doanh số xuất khẩu đậu tương hàng tuần của Mỹ cho năm 2024 - 2025 là 480.300 tấn, so với ước tính của các nhà phân tích từ 100.000 tấn đến 500.000 tấn.
Thị trường cà phê thế giới cho thấy, giá cà phê biến động trái chiều trên các sàn giao dịch. Tại Sàn giao dịch London, giá cà phê robusta giao tháng 3/2025 đóng cửa phiên 22/2 ở mức 5.712 USD/tấn, tăng 1,26% (71 USD/tấn) so với phiên giao dịch trước; giá cà phê robusta giao tháng 5/2025 cũng tăng 1,1% (62 USD/tấn), lên mức 5.717 USD/tấn.
Ngược lại, trên Sàn giao dịch New York, giá cà phê arabica giao tháng 5/2025 tiếp tục giảm nhẹ 0,17% (0,65 xu/pound) so với phiên giao dịch trước, xuống còn 389,25 xu/pound; giá cà phê arabica giao kỳ hạn tháng 7/2025 giảm 0,17% (0,65 xu/pound), xuống còn 378,9 xu/pound (1 pound = 0,4535 kg).
Các nhà giao dịch cũng cho biết trọng tâm vẫn là triển vọng vụ mùa 2025 - 2026 của Brazil, với việc sản lượng cà phê arabica dự kiến sẽ giảm mạnh do thời tiết khô hạn vào năm 2024.
Rabobank cho biết lượng mưa vào tháng 11 và 12/2024 không thể đảo ngược thiệt hại nhưng đã ngăn chặn những kịch bản tồi tệ hơn.
Trong khi đó, thời tiết năm 2025 khô hạn hơn bình thường, nhưng lượng mưa dự kiến sẽ đủ để duy trì sản lượng quả cà phê hiện có trên cây, với điều kiện mưa sẽ quay trở lại trong thời gian tới.
Mới đây, một nhà môi giới tại Brazil dự báo sản lượng cà phê cho niên vụ Brazil trong niên vụ 2025 - 2026 có thể đạt 59,75 triệu bao. Con số này thấp hơn khoảng 8% so với niên vụ hiện tại.
Trong đó, sản lượng cà phê arabica được dự báo sẽ đạt tổng cộng 36,46 triệu bao, giảm 16% so với niên vụ trước, trong khi sản lượng cà phê robusta đạt 23,29 triệu bao, tăng 8%. Con số tổng thể này nằm ở mức thận trọng so với mức trung bình của các dự báo độc lập cho niên vụ 2025 - 2026, ước tính ở mức 62,8 triệu bao.
Cùng trong báo cáo này, xuất khẩu cà phê của Brazil trong niên vụ 2025 - 2026 dự kiến sẽ đạt 39,24 triệu bao, giảm 22% so với năm hiện tại. Tiêu thụ nội địa dự kiến sẽ giảm 4,5% xuống còn 20,9 triệu bao, do giá nội địa cao hơn.
Theo khảo sát, giá cà phê hôm nay tại khu vực Tây Nguyên đảo chiều tăng 1.800 - 2.000 đồng/kg so với ngày hôm qua, lên ngưỡng 132.800 - 134.000 đồng/kg.
Cụ thể, giá thu mua cà phê tại hai tỉnh Đắk Lắk và Gia Lai cùng tăng thêm 2.000 đồng/kg, lên mức 134.000 đồng/kg.
Bích Hồng - Minh Hằng (TTXVN)
Nguồn Tin Tức TTXVN : https://baotintuc.vn/thi-truong-tien-te/thi-truong-nong-san-gia-lua-gao-giam-nhe-20250223130252741.htm