Thế là chúng tôi đến số nhà 3, ngõ 48, phố Tô Vĩnh Diện (Thanh Xuân, Hà Nội). Cụ chủ nhà Nguyễn Quỳ tuổi đã ngót 90 còn minh mẫn, nhanh nhẹn, đang chăm sóc cây cảnh ở mảnh vườn nhỏ trước nhà. Thấy người học trò cũ đến chơi, cụ rất mừng. Và khi giới thiệu tên tôi, cụ cười bảo: "Anh Quang Đẩu, văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình, tôi vẫn hay đọc bài anh viết về khoa học, công nghệ thấy lý thú lắm, nay mới được gặp".
Rồi vào nhà, cụ giới thiệu tôi với cụ bà tuổi cũng đã 80. Hóa ra cụ bà cùng học khóa 1 Đại học Bách khoa Hà Nội với giáo sư Thị, chỉ khác ngành, cụ học về Hóa thực phẩm.
Thiếu tướng, GS, TS Nguyễn Quỳ.
Giáo sư Thị nói với cụ chủ nhà là Quang Đẩu muốn biết về hoạt động khoa học ngành điện hóa của thầy đấy. Cụ cười hiền, uống nước đã, chuyện đời, chuyện khoa học sau. Chúng tôi nhấm nháp ngụm nước trà Thái nóng hổi, thơm phức. Lát sau, cụ mới nhẩn nha vào chuyện:
- Đầu năm 1963, tôi ở Đức về nước, được phân về Cục Nghiên cứu kỹ thuật, tiền thân của Viện Kỹ thuật Quân sự, Bộ Quốc phòng bây giờ. Ngày đó, Thiếu tướng Trần Sâm là Phó tổng Tham mưu trưởng kiêm Cục trưởng Cục Nghiên cứu kỹ thuật. Tôi rất phục tầm nhìn xa trông rộng của tướng Trần Sâm. Câu đầu tiên thủ trưởng hỏi tôi là, cậu học chuyên môn gì? Tôi trình bày sơ qua về ngành điện hóa, về nội dung luận án Tiến sĩ của tôi. Thủ trưởng sau một vài giây suy nghĩ, nói ngay: Thế thì cậu nên đi sâu vào việc bảo quản, niêm cất vũ khí, khí tài. Mà ngành này rất cần, trong điều kiện khí hậu nóng ẩm của nước ta, vũ khí, khí tài nếu không được bảo quản đúng cách sẽ bị xuống cấp nhanh, ảnh hưởng đến sức chiến đấu của Quân đội. Thế là ngay từ buổi đầu, tôi đã có đất dụng võ…
Mở đầu câu chuyện, vị tướng già đã giúp tôi hình dung được một lĩnh vực chuyên môn sâu rộng, phong phú là bảo quản, niêm cất vũ khí, khí tài. Nhưng buổi đầu làm quen, tôi còn muốn biết về thời tuổi trẻ cụ đi làm cách mạng. Nghe tôi nói, cụ Nguyễn Quỳ lại cười hiền mà bảo, thế thì tôi kể anh nghe về người thầy đầu tiên đã chỉ ra con đường sáng cho tôi nhé. Câu chuyện cụ kể ngược dòng thời gian gần 70 năm về trước:
- Tôi quê Phù Mỹ, Bình Định. Lúc nhỏ, tôi học một trường Pháp ở Quy Nhơn, ăn ở luôn trong ký túc xá của trường. Học trò các tỉnh từ Quảng Nam tới Bình Thuận đều học ở đây. Cạnh phòng tôi ở là phòng của ông giáo vụ Nguyễn Xuân Trâm. Ông giáo kỳ cựu ấy lại có máu văn nghệ. Thấy tôi chữ đẹp, cẩn thận, một hôm, ông nhờ tôi chép lại bản thảo một bài thơ do ông mới sáng tác có tựa là Hiệp sĩ hạ sơn. Bài thơ cổ vũ lòng yêu nước, tôi thích, chép xong thuộc ngay. Đến giờ vẫn còn nhớ những câu đầy nghĩa cả cao đẹp như: Tôi là kẻ lên non từ thuở bé/ Tìm tôn sư để học phép kiếm cung/ Tập sống thanh cao thử dạ anh hùng/ Nay tôi nguyện bước lên đường hiệp sĩ/ Lấy nhân nghĩa tôi thề cao chí khí/ Sẽ luôn luôn vì Tổ quốc hết lòng/ Giữ đạo làm người hiếu đễ tín trung/ Thà một chết chứ không làm nô lệ…
Đến một lần, thầy Trâm gọi riêng tôi vào, mời ăn bánh ngọt, nói: Ở ngoài Bắc, Việt Minh đang chuẩn bị võ khí đánh quân Pháp. Điều này là bí mật, em không được nói với ai cả. Hóa ra thầy là đảng viên Cộng sản hoạt động ngầm. Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9-3-1945, nhiều học sinh sợ bỏ về, lớp tôi có 50 người chỉ còn 10 người bám trụ. Nhật thay hiệu trưởng người Pháp bằng hiệu trưởng người Việt, đưa các tù chính trị ở Buôn Ma Thuột và Lao Bảo tập hợp về ký túc xá của trường. Mấy ông đó lại đọc cho tôi nghe thơ Tố Hữu, bảo cho tôi hiểu Cộng sản là như thế nào và giảng giải cả về phong trào yêu nước của cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh nữa. Đến ngày Tổng khởi nghĩa, tôi tham gia phong trào thanh niên xã, lúc đó mới 15 tuổi. Năm học 1946-1947, tôi ra học chuyên khoa ở Trường Lê Khiết, Quảng Ngãi. Do hoạt động tích cực, tôi được Bí thư Tỉnh ủy Bình Định đưa về làm giúp việc trực tiếp. Sau đó, ở Bình Định có trường đệ nhị chuyên khoa, tôi lại được tỉnh ủy cho đi học tiếp, rồi cử về làm giáo viên của trường phổ thông cấp 2 huyện An Nhơn. Anh Phan Trường Thị học ở đấy. Tôi vẫn nhớ ngày ấy anh học giỏi là cán sự môn Toán của tôi. Thầy trò có mối liên hệ bền chặt từ đó đến giờ.
Cụ Nguyễn Quỳ và cụ bà tại nhà riêng.
Tháng 8-1953, tôi được Sở Giáo dục Liên khu 5 đưa ra Bắc đào tạo cấp 3. Cả đoàn gồm 18 người, đi dọc theo đường Trường Sơn, đến tháng 11 thì tới Tuyên Quang. Tôi theo khoa học tự nhiên, được sang Khu học xá của ta đóng ở Nam Ninh, Trung Quốc. Mới được 8 tháng thì Hiệp định Geneva được ký. Bắt đầu thời kỳ hòa bình xây dựng trên miền Bắc, nhân chuyến thăm, làm việc tại CHDC Đức, Thủ tướng Phạm Văn Đồng được bạn đề nghị sẽ cấp 50 suất học bổng tặng học sinh Việt Nam để đào tạo thành tài về xây dựng đất nước. Năm đó, tôi mới vào Trường Sư phạm cao cấp của Khu Học xá, kết quả học tập tốt, nên ngay đợt đầu, tôi được chọn sang Đông Đức.
Thích Toán, Lý lại “bị” phân học Hóa. Sau một năm học tiếng nước bạn, tháng 9-1955, tôi vào Khoa Hóa, Đại học Kỹ thuật tổng hợp Dresden. Chương trình nặng đòi hỏi người học phải gắng sức rất nhiều, không ít người không trụ lại được do bị điểm kém hoặc sức khỏe suy sụp. Buổi đầu lớp có 120 người, hết năm thứ hai còn một nửa, đến khi thi chỉ 34 người đỗ. Do kết quả học tập tốt, tôi được chuyển tiếp nghiên cứu sinh Tiến sĩ.
Viện sĩ Schwabe, nhà điện hóa nổi tiếng, đã hướng dẫn tôi thực hiện đề tài: “Khảo sát lớp thụ động của nhôm và kẽm bằng đồng vị phóng xạ tritium”. Với đề tài này, tôi đã có một phát hiện mới về hiện tượng nước bị đẩy ra trong lớp thụ động khi dùng đồng vị phóng xạ để đo kiểm. Bản luận văn Tiến sĩ được hội đồng khoa học trường đánh giá “tốt”. Nội dung nghiên cứu được thực hiện tại một nhà máy mà trước khi là nghiên cứu sinh tôi đã làm ra sản phẩm, có đủ tiền để học tiếp. Thầy hướng dẫn bảo, có thể mở rộng và đào sâu vấn đề nghiên cứu, mà tiền anh làm ra vẫn còn dư đấy, nếu muốn có bằng Tiến sĩ bậc 2 (docter habin) thì ở lại làm tiếp. Nhưng ngày đó tôi biết mình khi về nước sẽ được phục vụ Quân đội, rất hợp với ước nguyện. Thế là tôi không ở lại làm Tiến sĩ bậc 2 mà về nước, nhập ngũ ngay…
Qua câu chuyện cụ Nguyễn Quỳ kể đã giúp tôi hình dung được những đóng góp của lớp người đầu tiên trong Quân đội ở lĩnh vực mới mẻ là bảo quản, niêm cất vũ khí, khí tài. Phải nói rằng, trước thời điểm TS Nguyễn Quỳ về nước, trong Quân đội đã thực thi công việc này rồi, song ở mức độ đơn giản và không có nhiều bài bản cụ thể, vẫn làm theo thói quen, kinh nghiệm. Vũ khí, khí tài ngày càng hiện đại thì cách bảo quản cũ không còn đáp ứng được, cần phải tuân thủ một cách làm mới, khoa học, tỉ mỉ. Vậy nên, khi về nước, cụ nói “có đất dụng võ” là ở ý đó. Và cụ là một trong những người đầu tiên đặt nền móng cho ngành này của Quân đội ta.
Từ năm 1964 đến 1977, trên cương vị trợ lý, rồi Phó phòng, Trưởng phòng hóa chất, TS Nguyễn Quỳ đã trực tiếp nghiên cứu và chỉ đạo thành công nhiều đề tài ứng dụng việc chống ăn mòn kim loại, chống ẩm và cách điện cho vũ khí, thiết bị điện tử, chống mốc cho khí tài quang học...
Trong nghiên cứu vật liệu hóa chất và công nghệ hóa học phục vụ các hoạt động bảo đảm tác chiến của Quân đội, anh là tác giả và đồng tác giả của những công trình được đánh giá cao như: Sản xuất chất phát sáng lạnh làm tín hiệu phát sáng cho bộ đội trong hành quân, trong giao thông trên đường Trường Sơn, vì là phát sáng lạnh nên địch không thể phát hiện bằng các phương tiện trinh sát hồng ngoại; keo dán nguội săm ô tô cho bộ đội vận tải Trường Sơn; chế tạo thuốc nổ lỏng có khả năng bay hơi tốt phục vụ việc đánh lô cốt, hầm ngầm; chế tạo ngòi hẹn giờ nổ chậm cho bộ đội Đặc công. Đề tài sản xuất các loại vật liệu ngụy trang... Vấn đề niêm cất, bảo quản vũ khí, khí tài quân sự bao gồm nhiều đề tài cộng lại, mang lại hiệu quả thiết thực phục vụ cho chiến đấu và huấn luyện, do một tập thể cán bộ khoa học kỹ thuật thực hiện, trong đó có công đầu là GS, TS Nguyễn Quỳ. Sau này, đề tài về bảo quản, niêm cất vũ khí, khí tài quân sự trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã được trao Giải thưởng Nhà nước đợt đầu tiên (năm 1996).
Là nhà nghiên cứu ứng dụng, GS Nguyễn Quỳ đã chủ trì hơn 20 công trình khoa học lớn, có thể kể tên: Công trình nghiên cứu bảo quản Nhà sàn và các di vật của Hồ Chủ tịch; nghiên cứu sản xuất chất phát sáng lạnh, phục vụ ban đêm cho bộ đội hành quân đêm (kết hợp với Viện hóa học công nghiệp để tổ chức sản xuất); nghiên cứu chế tạo một số vật liệu và dụng cụ, phục vụ Binh chủng Đặc công như: Ngòi điện hóa, vật liệu ngụy trang, thuốc nổ lỏng… Giáo sư còn chủ biên 2 cuốn sách chuyên môn: Ăn mòn kim loại trong công tác bảo quản (1965), Sổ tay bảo quản (1970).
Từ năm 1977, Thiếu tướng, GS, TS Nguyễn Quỳ được đề bạt Phó viện trưởng Viện Kỹ thuật Quân sự. Rồi ông có 9 năm làm Giám đốc Học viện Kỹ thuật Quân sự. So với người tiền nhiệm, ông đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu khoa học trong nhà trường quân sự và chính ông đã đề xuất với Bộ Quốc phòng dời trường từ một miền trung du về Hà Nội để có hướng phát triển lên chính quy, hiện đại. Đến năm 1989, ông chuyển sang làm Phó chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật. Năm 1995, ông nghỉ hưu ở tuổi 65.
Ở trên đã nêu những cống hiến của Thiếu tướng, GS, TS Nguyễn Quỳ lúc đương chức. Cũng rất đáng để nói tới là giai đoạn sau này, khi cụ nghỉ hưu, trải qua một lần ốm nặng, cụ đã vượt lên bệnh tật, có một lối sống chủ động, tích cực để sống khỏe, sống có ích trong đoạn đời còn lại.
Trận ốm xảy ra sau ngày về hưu, cụ đi cấp cứu ở Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 vì bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). Thường người nghiện thuốc lá, thuốc lào hay mắc bệnh này, song cụ không nghiện thuốc, đây là hậu quả của một thời gian dài thời trẻ tiếp xúc với hóa chất. Lúc học ở nước bạn, làm thí nghiệm liên miên trong phòng thí nghiệm, sau về nước, các đề tài đều dùng đến hóa chất, có nhiều chất độc hại. Cụ đã mất nhiều ngày phải thở bình oxy. Phải mất mấy năm với sự điều trị tích cực của các giáo sư, bác sĩ Quân đội, sức khỏe mới ổn định trở lại. Khỏi bệnh, cụ vẫn thường xuyên đọc sách báo cập nhật tin tức thời sự, cụ còn có niềm say mê với kiến thức y học.
Cụ quan niệm, cần có hiểu biết về bệnh, về thuốc men để tự phòng, chống bệnh tật cho mình, có điều kiện thì giúp đỡ người khác. Bởi thế mới có chuyện 12 năm liền, cứ sáng thứ Sáu là cụ từ nhà đi bộ đến Câu lạc bộ Thăng Long học chuyên đề về y, mỗi khóa khoảng 3 năm. Cụ còn học đi học lại vì cho rằng mỗi năm lại có cái mới được bổ sung trong bài giảng của thầy, có học lại cho nhớ cái cũ vẫn không thừa.
Tiếp thu kiến thức Đông Tây kim cổ, cụ hiểu Tây y, Đông y bổ sung cho nhau, không nên coi nhẹ bên nào. Khi ở Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 về, cụ liền điện cho người cậu ruột là một lương y giỏi ở TP Hồ Chí Minh, đề nghị cung cấp một bài thuốc “bổ phế”. Cụ uống mấy chục thang thuốc người cậu cắt với đầu vị “thiên môn”, “mạch môn”, thấy trong người khỏe ra nhiều. Sau trận ốm, cụ còn tự định ra một chế độ ăn uống, nghỉ ngơi phù hợp với khả năng sức khỏe, không quên uống thuốc bổ, mà chủ yếu dùng loại thực phẩm chức năng có xuất xứ từ thiên nhiên.
Một dạo, cụ thấy dưới hàm có nổi lên một cục nhỏ. Biết Học viện Quân y vừa nghiên cứu, sản xuất được một loại thuốc từ bèo dâu nuôi cấy trong một dung dịch đặc biệt, tăng cường sức đề kháng của cơ thể, có khả năng ức chế khối u, cụ liền tìm uống theo phác đồ bác sĩ, kết quả sau một thời gian, khối u dần nhỏ lại. Trên thị trường có nhiều loại thực phẩm chức năng, cụ cho rằng không nhất thiết cứ phải theo sự chỉ dẫn trong đơn, mà phải biết “lắng nghe cơ thể”. Chẳng hạn, một lần, có loại thực phẩm chức năng nọ tác dụng phục hồi trí nhớ cho người già, trong chỉ dẫn uống ngày 4 viên. Cụ chỉ uống 2 viên, sau một thời gian thấy trí nhớ có khá lên. Đến khi cụ uống cả liều 4 viên, thì có hiện tượng trằn trọc, mất ngủ. Cụ chủ động giảm liều và lại thấy ngủ tốt như thường. Cụ bà cũng được cụ hướng dẫn cách tập và uống thuốc, có căn bệnh khớp, được chữa trị theo chỉ dẫn của bác sĩ và lời khuyên của cụ, bấy nay đã thấy đỡ nhiều.
Một lần, cụ Nguyễn Quỳ được diện kiến Đại tướng Võ Nguyên Giáp, lúc sắp chia tay, cụ hỏi Đại tướng: Nghe nói Đại tướng tập thiền thường xuyên, có tác dụng gì ạ? Đại tướng trả lời: Để bồi bổ trí não. Thế là cụ chủ động đi học thiền. Đã nhiều năm nay, hằng ngày, cụ có 2 buổi ngồi thiền, mỗi buổi chừng nửa giờ, mở đầu bằng bài kệ: Quay lại nương tựa/Hải đảo tự thân/Chánh niệm là Phật/Soi sáng xa gần... Hiệu quả rõ rệt. Nay ở tuổi ngót “cửu thập” mà đầu óc vẫn minh mẫn, trí nhớ tốt, cụ cho rằng được như vậy là do mình dùng thuốc đúng lúc và thiền đã có tác dụng “bồi bổ” não bộ như nhận định của Đại tướng Võ Nguyên Giáp hồi nào…./.