Phát biểu sau cuộc gặp với Tổng thống Mỹ Donald Trump, ông Erdogan cho biết vấn đề từng khiến Ankara bị loại khỏi chương trình là thương vụ mua hệ thống phòng không S-400 của Nga, "không còn nằm trong chương trình nghị sự và đã được khép lại".
Không quân Mỹ điều khiển máy bay chiến đấu F-35 Lightning II trong một buổi trình diễn tại căn cứ không quân Luke gần Phoenix, Arizona, ngày 17/3/2018. (Nguồn: Getty Images)
Đây là lần đầu tiên một lãnh đạo Thổ Nhĩ Kỳ công khai bày tỏ mong muốn tái gia nhập chương trình F-35 kể từ khi bị đình chỉ năm 2019, sau khi Mỹ lo ngại radar của S-400 có thể thu thập dữ liệu về đặc tính tàng hình của F-35 và làm rò rỉ công nghệ cho Nga.
Thổ Nhĩ Kỳ từng là một trong những đối tác sáng lập của chương trình F-35 từ năm 2002, đóng góp hơn 1,3 tỷ USD và tham gia sản xuất hơn 900 linh kiện cho loại tiêm kích này, bao gồm thân máy bay và bộ phận hạ cánh.
Ankara từng có kế hoạch mua tới 100 chiếc F-35 để hiện đại hóa lực lượng không quân, vốn đang phụ thuộc vào các chiến đấu cơ F-16 và F-4 đã lỗi thời. Tuy nhiên, việc tiếp nhận S-400 đã khiến Washington không chỉ đình chỉ việc giao máy bay, mà còn loại Thổ Nhĩ Kỳ khỏi chuỗi cung ứng và áp đặt các lệnh trừng phạt theo Đạo luật CAATSA.
Dù vậy, bối cảnh địa chính trị đã thay đổi. NATO đang nỗ lực hiện đại hóa lực lượng không quân để đối phó với các mối đe dọa. Trong khi đó, Thổ Nhĩ Kỳ với vị trí chiến lược giáp châu Âu, Trung Đông và Biển Đen, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các nỗ lực ổn định khu vực.
Tổng thống Erdogan thời gian qua cũng tăng cường vai trò trung gian hòa giải giữa Nga và Ukraine, giúp Ankara giành được nhiều điểm cộng về ngoại giao trong mắt phương Tây. Tại hội nghị NATO vừa qua, Thủ tướng Đức Friedrich Merz đã công khai cảm ơn ông Erdogan vì những nỗ lực này.
Tuy nhiên, việc Thổ Nhĩ Kỳ quay lại chương trình F-35 không đơn thuần chỉ là quyết định chính trị. Vấn đề kỹ thuật và an ninh, đặc biệt liên quan đến sự hiện diện của S-400 trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ, vẫn là mối lo lớn với Mỹ và các đồng minh.
Giới chức Lầu Năm Góc lâu nay cảnh báo rằng các radar tiên tiến của S-400 có thể âm thầm thu thập dữ liệu điện từ của F-35, làm lộ cấu trúc tàng hình và các tín hiệu độc quyền. Đây là lý do khiến nhiều nước khác, như Ấn Độ, cũng gặp trở ngại khi muốn tích hợp S-400 với các hệ thống phương Tây.
Một trong những hướng đi được bàn đến là "cô lập" S-400 về mặt kỹ thuật và vận hành, ví dụ như chỉ triển khai F-35 tại các căn cứ không đặt hệ thống phòng không của Nga, hoặc sử dụng giao thức bảo mật đặc biệt. Việc khôi phục lòng tin sẽ không dễ dàng và có thể mất nhiều năm.
Về phía Thổ Nhĩ Kỳ, việc tái gia nhập chương trình F-35 không chỉ là bài toán quân sự mà còn mang lại lợi ích kinh tế lớn. Trước khi bị loại, ngành công nghiệp quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ, đặc biệt là các công ty như TAI và Aselsan, đã đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng F-35 toàn cầu.
Mục tiêu quay lại chương trình có thể khôi phục hàng nghìn việc làm, đem lại nguồn thu hàng tỷ USD và giúp Thổ Nhĩ Kỳ tiếp cận công nghệ tiên tiến phục vụ cho các dự án trong nước như máy bay chiến đấu TF-X (còn gọi là KAAN). Dự án này dự kiến bay thử vào năm 2026 nhưng vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức về tài chính và kỹ thuật.
Không chỉ giới công nghiệp, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ cũng rất mong muốn có F-35. Trong khi các đối thủ khu vực như Hy Lạp đang sở hữu Rafale và đặt mua F-35, thì lực lượng không quân Thổ Nhĩ Kỳ vẫn dựa vào đội hình F-16 già cỗi.
Nếu không đạt được thỏa thuận với Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ vẫn còn những phương án thay thế như tiếp tục đầu tư vào TF-X, đàm phán mua Eurofighter Typhoon từ Anh và Đức, hoặc tìm đến các đối tác khác như Nga (Su-57) hay Pháp (Rafale).
Việc Thổ Nhĩ Kỳ có quay lại được với F-35 hay không sẽ phụ thuộc vào thiện chí và mức độ nhượng bộ từ cả hai phía. Mỹ cần đảm bảo an ninh công nghệ, trong khi Ankara phải chứng minh rằng mình có thể tách bạch rõ ràng giữa quan hệ với Moscow và cam kết với NATO.
Xuân Minh