Thu nhập bình quân của người lao động được gia tăng

Thu nhập bình quân của người lao động được gia tăng
3 giờ trướcBài gốc
Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở mức dưới 3%
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn vừa ký ban hành Nghị quyết số 1796/NQ-UBTVQH giám sát chuyên đề về việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn
Tại Nghị quyết nêu rõ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản tán thành nội dung Báo cáo số 1385/BC-ĐGS của Đoàn Giám sát với những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân chủ yếu.
Trong đó, về kết quả đạt được: Giai đoạn 2021-2024, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản định hướng, chủ trương phát triển nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được ban hành tương đối đầy đủ, từng bước thể chế hóa chủ trương của Đảng, tạo hành lang pháp lý, định hướng nội dung, đặt ra những yêu cầu cụ thể, hướng dẫn thực hiện việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân lực chất lượng cao.
Nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao tăng cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu ngày càng phù hợp hơn. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhìn chung được đào tạo bài bản, có bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực chuyên môn tốt. Chất lượng, số lượng nhân lực nghiên cứu phát triển từng bước được cải thiện.
Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm duy trì ở mức dưới 3%. Năng suất lao động tăng trung bình 5%/năm. Thu nhập bình quân của người lao động được gia tăng. Cơ cấu, phân bố lao động có sự dịch chuyển tích cực.
Chất lượng giáo dục đào tạo ngày càng được nâng lên, đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển nguồn nhân lực. Số cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp gia tăng; quy mô đào tạo tiếp tục được mở rộng. Chính sách phát triển đội ngũ giảng viên, đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học được quan tâm.
Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ, chức danh giáo sư và phó giáo sư tăng dần đều hằng năm. Tự chủ đại học được mở rộng gắn với trách nhiệm giải trình và bảo đảm phù hợp với các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước.
Công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý và phát triển nguồn nhân lực có nhiều đổi mới, bảo đảm công khai, minh bạch, đúng quy định, quan tâm hơn tới lao động nữ, lao động là người dân tộc thiểu số.
Yêu cầu cấp thiết về nhân lực chất lượng cao
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Nghị quyết cũng chỉ ra các tồn tại, hạn chế. Cụ thể, Chính phủ, một số bộ, ngành và hầu hết các địa phương chưa ban hành văn bản tổng thể, định hướng chiến lược dài hạn về phát triển nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao.
Một số chiến lược, chương trình, đề án, trong đó có những văn bản quan trọng, có tính chiến lược chậm được ban hành, tổ chức thực hiện còn hạn chế, kết quả chưa rõ nét.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa với tốc độ nhanh. Tầm vóc, thể lực của người dân còn hạn chế. Chất lượng nguồn nhân lực cải thiện với tốc độ chậm, chưa đột phá, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường lao động trong giai đoạn tới.
Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, tỷ lệ lao động nông nghiệp còn cao. Cơ cấu, phân bố lao động theo trình độ đào tạo còn bất hợp lý. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ thấp.
Nhân lực chất lượng cao tập trung ở các đô thị lớn, khu vực công; thiếu hụt ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, khu vực kinh tế tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài. Năng suất lao động thấp so với một số nước trong khu vực. Tỷ lệ lao động phi chính thức cao.
Bước vào kỷ nguyên mới, yêu cầu về nhân lực chất lượng cao ngày càng cấp thiết, đất nước ta đang đứng trước nguy cơ thiếu hụt nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành, “tổng công trình sư”, nhóm nghiên cứu mạnh trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế mới, nhân lực phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh và các lĩnh vực quan trọng khác như luật, trí tuệ nhân tạo, bán dẫn...
Cơ chế tài chính cho phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa tương xứng với vai trò “đột phá chiến lược”. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo các năm 2021, 2022, 2023 đều dưới 18%.
Đầu tư phát triển giáo dục đại học chưa trọng tâm, trọng điểm. Việc phân bổ vốn đầu tư chưa gắn với kết quả đầu ra. Chưa chú trọng chi đầu tư phát triển lực lượng nhà khoa học, nhà giáo giỏi; nâng cao chất lượng đào tạo; phát triển các nghề trọng điểm cấp quốc gia.
Theo đó, tại Nghị quyết đã đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp về tổ chức thực hiện. Cụ thể, Chính phủ khẩn trương ban hành Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Các bộ, ngành, địa phương căn cứ định hướng của Chính phủ xây dựng, ban hành văn bản về phát triển nguồn nhân lực phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới.
Đổi mới công tác dự báo nguồn nhân lực. Đẩy mạnh phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, hình thành các cơ sở dữ liệu về lao động, quản lý lao động khu vực công lập và ngoài công lập gắn kết, liên thông với các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong theo dõi, dự báo, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
Tập trung đầu tư, nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp trọng điểm, gắn với nhóm ngành ưu tiên, nhóm ngành thiếu nhân lực; dịch chuyển cơ cấu thị trường lao động theo hướng sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với thu nhập cao; bảo đảm thực hiện đúng, đủ quy định về mức chi tối thiểu ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo...
Giai đoạn 2021-2024, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 46.456 tỷ đồng đầu tư cho phát triển giáo dục, đào tạo, đồng thời, bố trí kinh phí thông qua các Chương trình mục tiêu quốc gia và nhiều chương trình, đề án khác; đầu tư cho nghiên cứu khoa học, bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục.
Quỳnh Nga
Nguồn Công Thương : https://congthuong.vn/thu-nhap-binh-quan-cua-nguoi-lao-dong-duoc-gia-tang-419381.html