Thách thức từ 81 vụ kiện bán phá giá
Với tổng công suất 28 triệu tấn thép thô/năm, đứng thứ 12 thế giới, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu sản phẩm thép lớn trong khu vực và toàn cầu.
Tuy nhiên, từ sớm các sản phẩm thép đã phải đối mặt với các vụ kiện về phòng vệ thương mại trong đó liên quan đến thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp nhập khẩu từ Việt Nam sẽ là trở ngại và gây khó khăn lớn với doanh nghiệp ngành này.
Thuế chống bán phá giá (CBPG) thép là một công cụ bảo vệ thương mại nhằm ngăn chặn tình trạng thép nhập khẩu được bán vào thị trường trong nước với giá thấp hơn giá thành sản xuất, gây thiệt hại cho các nhà sản xuất nội địa. Chính sách này có tác động mạnh mẽ đến cung - cầu, giá cả và sự phát triển của ngành thép nội địa cũng như các ngành sử dụng thép làm nguyên liệu đầu vào.
Ông Đinh Quốc Thái, Tổng thư ký Hiệp hội Thép Việt Nam, cho hay, ngành thép Việt Nam từ sớm phải đối mặt với các vụ kiện về phòng vệ thương mại, đó là năm 2004 khi Ủy ban châu Âu khởi kiện chống bán phá giá đối với mặt hàng thép ống của Việt Nam.
Năm 2019, Mỹ cũng áp thuế lên đến 456,23% đối với thép chống ăn mòn và thép cán nguội nhập khẩu từ Việt Nam nếu sử dụng nguyên liệu có nguồn gốc từ Hàn Quốc hoặc Đài Loan (Trung Quốc).
Các sản phẩm thép Việt Nam đã đối mặt với các vụ kiện về phòng vệ thương mại.
Ngày 4/4/2025, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) công bố quyết định sơ bộ trong cuộc điều tra chống bán phá giá đối với thép mạ nhập khẩu từ nhiều quốc gia, bao gồm Việt Nam. Theo đó, các doanh nghiệp thép mạ Việt Nam sẽ phải chịu mức thuế chống bán phá giá sơ bộ dao động từ 40 - 88%, với mức cao nhất lên tới 88,12%.
Mới nhất, ngày 26/9, Bộ Công Thương cho biết: Ủy ban châu Âu (EC) công bố áp thuế chống bán phá giá với thép cán nóng của Việt Nam cùng Ai Cập, Nhật Bản. Theo đó, EC quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá 12,1% với sản phẩm từ Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh và các công ty khác.
Những vụ kiện này hầu hết đến từ các thị trường chính xuất khẩu thép của Việt Nam như Mỹ, EU, một số nước trong khu vực ASEAN do kim ngạch xuất khẩu thép Việt Nam sang các thị trường này chiếm tỷ trọng cao.
Theo ông Đinh Quốc Thái, từ năm 2004, đối với các doanh nghiệp Việt Nam khái niệm "phòng vệ thương mại" còn rất mới, nhất là các doanh nghiệp trong ngành thép còn rất hoang mang và chưa có nhiều kinh nghiệm đối mặt với các vấn đề này. Thậm chí, có một số vụ việc mà mức thuế chống bán phá giá áp dụng có các doanh nghiệp Việt Nam lên tới hàng trăm phần trăm và kéo dài đến 5 năm. Cùng với xu thế phát triển thương mại toàn cầu, doanh nghiệp thép vẫn phải đối mặt với nhiều vụ việc điều tra hơn.
Đến nay, thị trường nước ngoài đã kiện phòng vệ thương mại đối với thép xuất khẩu của Việt Nam tổng số 81 vụ việc.
Bài học đa dạng hóa thị trường
Tuy nhiên, theo ông Thái, sau một thời gian đối mặt với nhiều vụ việc điều tra phòng vệ thương mại, từ các bài học thực tế rút ra, doanh nghiệp về cơ bản đã làm quen với quy trình của một vụ kiện, bắt nhịp được yêu cầu của cơ quan điều tra cùng với sự chuẩn bị kỹ càng và sự giúp đỡ của Bộ Công Thương, nhất là Cục Phòng vệ thương mại nhiều vụ việc đã có được kết quả đáng ghi nhận.
Điển hình năm 2017, Australia kết luận không tồn tại hành vi bán phá giá của Việt Nam đối với mặt hàng thép dây dạng cuộn.
Năm 2019, Indonesia thông báo dừng quyết định áp thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng tôn lạnh sau 2 năm điều tra; năm 2020, Australia chấm dứt điều tra chống bán phá giá/chống trợ cấp đối với mặt hàng ống thép chính xác.
Ông Phạm Tiến Dũng, chuyên gia kinh tế và phát triển doanh nghiệp, Tổ chức Economica Vietnam, chia sẻ: Bài học đầu tiên khi các sản phẩm thép xuất khẩu của Việt Nam bị áp thuế chống bán phá giá đó là khi ưu thế cạnh tranh của các nhà sản xuất nội địa giảm sút, thị phần của họ bị suy giảm, họ có thể sử dụng mọi biện pháp có thể để ngăn cản hàng nhập khẩu. Chống bán phá giá chỉ là một trong các biện pháp mà người sản xuất nội địa có thể sử dụng.
Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam phải có chiến lược đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu nhằm phân tán rủi ro, bảo đảm hoạt động sản xuất “không nên bỏ tất cả trứng vào một giỏ”. Không nên tập trung xuất khẩu một vài mặt hàng với khối lượng lớn vào một nước vì đây có thể là cơ sở cho các nước khởi kiện bán phá giá.
Doanh nghiệp thép Việt Nam phải có chiến lược đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa thị trường.
Để giúp các doanh nghiệp thép Việt Nam vượt qua những khó khăn khi bị nước ngoài kiện bán phá giá, cần tăng cường vai trò của Hiệp hội thép Việt Nam hỗ trợ giúp doanh nghiệp ngăn ngừa và ứng phó hiệu quả với các biện pháp chống bán phá giá của đối tác thương mại.
“Cung cấp kịp thời thông tin liên quan đến các thị trường xuất khẩu, về chính sách thương mại của quốc gia có vụ kiện chống bán phá giá và chính sách thương mại của Việt Nam, về pháp luật chống bán phá giá. Việc hỗ trợ có thể được thực hiện thông qua các hình thức: Hội thảo, tập huấn, cung cấp các tài liệu hướng dẫn về luật chống bán giá cho doanh nghiệp.
Các cơ quan đại diện ở nước ngoài của chính phủ cần giúp đỡ các doanh nghiệp về mặt cung cấp thông tin liên quan đến những luật sư giỏi ở nước sở tại có khả năng giúp cho doanh nghiệp thắng kiện. Các cơ quan hữu quan của chính phủ và phương tiện thông tin cần tuyên truyền tình hình để tăng cường lòng tin cho các doanh nghiệp theo đuổi vụ kiện”, ông Phạm Tiến Dũng cho hay.
Để bảo vệ các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước, mới đây Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định 2310 về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức với một số sản phẩm thép mạ từ Trung Quốc và Hàn Quốc. Theo đó, mức thuế được áp dụng cao nhất là 37,13% với hàng hóa xuất xứ từ Trung Quốc và 15,67% với sản phẩm từ Hàn Quốc.
Việc áp thuế chống bán phá giá đối với thép nhập khẩu mang lại lợi ích chính cho ngành sản xuất thép Việt Nam, giúp bảo vệ các nhà sản xuất nội địa khỏi tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, ngăn chặn thiệt hại do thép bán phá giá gây ra, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị phần và tăng cường tiêu thụ sản phẩm thép sản xuất tại Việt Nam, đồng thời đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững cho ngành thép.
Hà An