Thuế đối ứng 20%: Giải quyết bài toán cạnh tranh xuất khẩu

Thuế đối ứng 20%: Giải quyết bài toán cạnh tranh xuất khẩu
6 giờ trướcBài gốc
Sản xuất gỗ ván ép cong xuất khẩu tại nhà máy của Công ty TNHH Gỗ ván ép Nhật Nam, xã An Điền, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Ảnh: Vũ Sinh - TTXVN
Đầu tháng 8, Hoa Kỳ đã chính thức công bố bảng thuế đối ứng áp dụng cho hầu hết các đối tác thương mại, với nhiều điều chỉnh đáng kể so với tuyên bố ban đầu hồi tháng 4. Theo đó, mức thuế dành cho hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam giảm từ 46% xuống còn 20%, trong khi hàng trung chuyển từ Việt Nam sẽ chịu thuế ở mức 40%.
Diễn biến mới này đã phần nào giảm bớt gánh nặng cho cộng đồng doanh nghiệp nhưng cũng đặt ra yêu cầu phải gấp rút nâng cao nội lực, tăng khả năng tự chủ chuỗi cung ứng cho các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam.
*Một số ngành “dễ thở” Việt Nam là nền kinh tế có độ mở lớn, tăng trưởng phụ thuộc vào xuất khẩu hàng hóa với nhiều nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu hàng chục tỷ USD như dệt may, da giày, thủy sản, đồ gỗ và nội thất,… Trong đó, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu trọng điểm được các doanh nghiệp khai thác hiệu quả trong những năm gần đây.
Vì vậy, việc thay đổi chính sách thương mại của Hoa Kỳ tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất - xuất khẩu nói riêng và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nói chung.
Mức thuế 20% cho hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam cũng được cộng đồng ngành gỗ đánh giá là bước tiến tích cực trong quá trình đàm phán thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Ông Nguyễn Chánh Phương, Phó Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP. Hồ Chí Minh cho biết, tính đến hết tháng 6/2025 Hoa Kỳ đang chiếm tỷ trọng lớn nhất, tới 56% tổng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ và sản phẩm từ gỗ của Việt Nam. Bất chấp những biến động về thuế đối ứng, Hoa Kỳ vẫn nằm trong nhóm những thị trường có tăng trưởng xuất khẩu tốt với mức tăng 11,6%.
Bình luận về mức thuế đối ứng 20%, ông Nguyễn Chánh Phương cho rằng, ngành gỗ Việt Nam đang có nhiều cơ hội hơn thách thức. Quan điểm này được củng cố dựa trên tương quan mức thuế với các quốc gia xuất khẩu đồ gỗ khác trong khu vực; theo đó Việt Nam có mức thuế thấp hơn đáng kể so với Trung Quốc và chỉ cao hơn Malaysia, Indonesia 1%. “Doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gỗ hoàn toàn có thể bình tĩnh bởi ngành gỗ Việt Nam có nhiều lợi thế vượt trội cả về nguồn nguyên liệu, chi phí sản xuất và tay nghề lao động. Nhờ nội lực vững vàng, ngay từ thời điểm Hoa Kỳ áp dụng thuế tối thiểu 10%, ngành gỗ vẫn duy trì được lượng đơn hàng ổn định. Các doanh nghiệp cũng chủ động đàm phán với khách hàng về phương án chia sẻ chi phí phát sinh từ chính sách thuế mới theo công thức 1/3 (nhà sản xuất, nhà nhập khẩu và người tiêu dùng mỗi bên chịu 1/3 chi phí tăng thêm) nhằm cân bằng lợi ích, duy trì quan hệ hợp tác lâu dài.”, ông Nguyễn Chánh Phương thông tin. Ông Đinh Hồng Kỳ, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Secoin, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp xây dựng và Vật liệu xây dựng TP. Hồ Chí Minh (SACA) nhận định, mức thuế 20% đối với hàng xuất xứ Việt Nam dù chưa đạt kỳ vọng, nhưng đây vẫn là một tín hiệu lạc quan so với mức thuế công bố ban đầu. Riêng đối với ngành vật liệu xây dựng, số lượng doanh nghiệp xuất khẩu sang Hoa Kỳ chưa nhiều nhưng những doanh nghiệp như Secoin lại đang phụ thuộc gần như hoàn toàn vào thị trường này, chiếm tới 90% sản lượng xuất khẩu. Với mức thuế đối ứng 20%, hiện tại doanh nghiệp vẫn cố gắng xoay sở được nhưng năng lực cạnh tranh sẽ giảm; khả năng tiếp cận thị trường Hoa Kỳ của các doanh nghiệp bị hạn chế. Theo ông Đinh Hồng Kỳ, Hoa Kỳ đã là thị trường xuất khẩu chủ lực của nhiều mặt hàng tiêu dùng như dệt may, da giày, đồ gỗ, thủy sản,…cũng là thị trường tiềm năng với ngành vật liệu xây dựng. Do đó, doanh nghiệp mong muốn Chính phủ và các Bộ ngành tiếp tục đàm phán theo từng ngành, từng mã hàng; tìm cơ hội giảm mức thuế đối ứng cho các mặt hàng có xuất xứ thuần túy từ Việt Nam để tạo lợi thế cạnh tranh tốt hơn. * Nhiều thách thức đan xen Dù mức thuế đối ứng đã giảm đáng kể so với công bố ban đầu, song 20% vẫn là thách thức không nhỏ cho các ngành hàng có biên độ lợi nhuận thấp và đang phải cạnh tranh gay gắt như dệt may, thủy sản… Theo đó, mức thuế đối ứng 20% của Hoa Kỳ được đánh giá là “gánh nặng” cộng dồn cho ngành thủy sản trong bối cảnh tăng trưởng khá bấp bênh gần đây.
Dây chuyền chế biến hải sản của Công ty Công ty Cổ phần Chế biến và Xuất nhập khẩu thủy sản Bà Rịa-Vũng Tàu (Baseafood). Ảnh: Hoàng Nhị - TTXVN
Bà Trần Thị Quế Phương, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam cho biết, Hoa Kỳ từng là thị trường số một về xuất khẩu tôm của Việt Nam nhưng gần đây đã suy giảm rõ rệt do tác động của các hàng rào thương mại. Trước khi áp dụng thuế đối ứng 20%, vào tháng 6/2025 Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã công bố mức thuế chống bán phá giá cao bất ngờ, lên đến hơn 35% đối với nhiều doanh nghiệp xuất khẩu tôm của Việt Nam. Ngoài ra, sẽ còn có khoản thuế chống trợ cấp dự kiến sẽ công bố vào cuối năm nay.
Đối chiếu mức thuế đối ứng, tôm Việt Nam có lợi hơn Ấn Độ (thuế 25%) nhưng sẽ rất khó cạnh tranh với Ecuador (thuế 15%). Giá thành sản xuất thủy sản Việt Nam, đặc biệt là tôm vốn đã cao hơn các quốc gia khác, cộng thêm việc phải chịu “thuế chồng thuế” càng khiến doanh nghiệp thủy sản lo ngại. Tăng trưởng xuất khẩu thủy sản dự báo sẽ giảm trong những tháng tới. Dệt may là một trong 3 nhóm ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất vào Hoa Kỳ, sau máy vi tính - sản phẩm điện tử và máy móc - phụ tùng. Đây cũng là ngành có số lượng lao động đông đảo với khoảng 3 triệu lao động, chiếm đến 25% số lao động trong ngành sản xuất công nghiệp tại Việt Nam. Ông Nguyễn Xuân Linh, Giám đốc Vận hành Tập đoàn SCAVI chia sẻ, theo dõi quá trình đàm phán giữa hai quốc gia và dựa trên mối quan hệ chuỗi cung ứng, ở góc độ là doanh nghiệp dệt may, chúng tôi mong đợi một mức thuế thấp hơn. Bởi ngành dệt may Việt Nam không cạnh tranh trực tiếp với sản xuất nội địa của Hoa Kỳ. Mức thuế 20% không quá tệ khi đặt trong bối cảnh hầu hết các quốc gia đều phải chịu thuế tương đương hoặc cao hơn nhưng sẽ khiến mặt bằng chung chi phí, giá thành sản phẩm tăng lên, sức mua của thị trường suy yếu. Điều này đặt ra yêu cầu các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng từ nguyên vật liệu, dệt - may đến thương mại phải cùng nhau tìm giải pháp tối ưu hóa chi phí, hạn chế tối đa việc tăng giá bán với người tiêu dùng. Theo ông Nguyễn Xuân Linh, nếu chỉ xét về thuế, Việt Nam đang có lợi thế hơn so với Trung Quốc, Ấn Độ và tương đương với Bangladesh là những đối thủ mạnh và cạnh tranh trực tiếp. Về lý thuyết, Việt Nam có thể được hưởng lợi từ việc dịch chuyển đơn hàng từ các quốc gia có mức thuế cao hơn. Tuy nhiên, để khai thác được đơn hàng này, Việt Nam cũng phải đáp ứng yêu cầu minh bạch chuỗi cung ứng, quy tắc xuất xứ để không bị đánh thuế trung chuyển. Thực tế, nguyên phụ liệu dệt may rất nhiều chủng loại và Việt Nam mới chỉ nội địa hóa được khoảng 50 - 60%. Việt Nam có lợi thế để thu hút đầu tư và đang khuyến khích đầu tư vào các nhà máy sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành dệt may nhằm tăng tỷ lệ nội địa hóa, đảm bảo quy tắc xuất xứ. Tuy nhiên, để xây dựng và đưa vào vận hành ổn định một nhà máy nguyên phụ liệu cần ít nhất từ 2 – 3 năm và đó là khoảng thời gian đầy thách thức với các doanh nghiệp.
Xuân Anh/vnanet.vn
Nguồn Bnews : https://bnews.vn/thue-doi-ung-20-giai-quyet-bai-toan-canh-tranh-xuat-khau/382897.html