Thuế đối ứng Hoa Kỳ 20%: Cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp Việt đa dạng hóa thị trường xuất khẩu

Thuế đối ứng Hoa Kỳ 20%: Cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp Việt đa dạng hóa thị trường xuất khẩu
2 giờ trướcBài gốc
Hoạt động logistics tại Cảng Quốc tế Tân Cảng - Cái Mép. Ảnh minh họa: Vũ Sinh/TTXVN
Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tận dụng lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) đang trở thành chiến lược then chốt giúp doanh nghiệp giảm bớt phụ thuộc vào thị trường Mỹ, mở rộng cánh cửa sang những thị trường mới với thuế suất ưu đãi.
Nỗ lực biến nguy thành cơ
Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền, giảng viên Trường Đại học Nguyễn Tất Thành cho rằng doanh nghiệp Việt cần bình tĩnh trước mức thuế đối ứng 20%. Trong ASEAN, Việt Nam đang chịu mức thuế cao hơn Thái Lan, Indonesia, Philippines, Campuchia (đều chịu mức 19%), nhưng mức chênh lệch 1% rõ ràng là không lớn.
Trong nhóm các nước đang cạnh tranh xuất khẩu một số ngành hàng chủ lực sang Mỹ với Việt Nam như Bangladesh, Ấn Độ, Trung Quốc (ngành dệt may); Trung Quốc, Indonesia (ngành da giày), Trung Quốc, Canada, Mexico, Indonesia, Malaysia và Thái Lan (ngành đồ gỗ)…, Việt Nam đang chịu mức thuế gần như tương đương, thậm chí, thấp hơn một chút. Như vậy, ngay cả với các nước đang chịu thuế thấp hơn 1%, Việt Nam có thể đạt được lợi thế cân bằng nếu khai thác tốt hơn tiềm năng của từng ngành hàng và của cả nền kinh tế.
Xét trong tương quan về mức thuế, trong ASEAN, mức thuế đối ứng của Việt Nam gần như tương đương với Indonesia, Thái Lan, Philippines, Malaysia, Campuchia, thấp hơn so với Brunei, Lào, Myanmar. Trường hợp đặc biệt nhất là Singapore, chịu mức thuế đối ứng 10%, tuy nhiên, đây không phải đối thủ cạnh tranh trực tiếp với nhóm nước còn lại. Với các nước ngoài khu vực, Mỹ áp thuế thương mại bổ sung 25% đối với hàng hóa của Ấn Độ, nâng tổng mức thuế đối nước này lên 50%, còn Trung Quốc đang đối đầu thương mại với Mỹ. Vậy nên, Việt Nam vẫn là một điểm đến hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư. Còn về câu chuyện trong nguy có cơ không, điều đó phải dựa vào nỗ lực của từng doanh nghiệp và toàn nền kinh tế, Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền nhận định.
Là một doanh nghiệp có hàng hóa xuất khẩu sang Hoa Kỳ, ông Lý Thái Hồng Minh, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại và sản xuất dừa BenTre (Bentrecorp) cho rằng, đây là một diễn biến bất lợi nhưng cũng nằm trong dự đoán sau các tín hiệu từ quá trình đàm phán thương mại song phương thời gian qua.
“ Việc áp dụng ngay sau 7 ngày ký khiến doanh nghiệp xuất khẩu như chúng tôi gặp khó trong việc điều chỉnh hợp đồng, giá bán và kế hoạch giao hàng”. Ông Minh nói tiếp, tuy nhiên, so với mức 46% trước đàm phán, mức 20% vẫn có sự thương lượng nhất định từ phía Hoa Kỳ. Vấn đề là khoảng thời gian quá ngắn để chuẩn bị ứng phó, nên rủi ro đơn hàng bị hủy hoặc khách hàng yêu cầu đàm phán lại giá là rất lớn.
Việc Hoa Kỳ áp thuế 20% đối với hàng hóa từ Việt Nam, thoạt nhìn là bất lợi, nhưng lại tạo ra một khoảng trống thị trường đặc biệt cho những doanh nghiệp có khả năng chuyển đổi nhanh và sở hữu sản phẩm khác biệt. Với sản phẩm cà phê Mộng Dừa xuất khẩu sang Mỹ của Công ty TNHH Thương mại và sản xuất dừa BenTre (Bentrecorp) đây là cơ hội để tái định vị sản phẩm cà phê Việt.
Để tận dụng cơ hội, Công ty TNHH Thương mại và Sản xuất dừa BenTre (Bentrecorp) sẽ triển khai chiến lược tiếp cận trực tiếp thị trường Mỹ nhằm vừa tăng thị phần vừa giảm ảnh hưởng của thuế suất 20% như sẽ thành lập Văn phòng Đại diện tại Mỹ (2025–2026), đặt tại California hoặc Texas – nơi có cộng đồng người Việt đông và nhu cầu cà phê mạnh. Văn phòng này sẽ là trung tâm giao dịch, trưng bày sản phẩm, tiếp nhận đơn hàng và hỗ trợ khách hàng, là cơ sở pháp lý để tiến tới mở kho hàng trung chuyển giảm thời gian và chi phí giao hàng. Công ty TNHH Thương mại và Sản xuất dừa BenTre (Bentrecorp) ký hợp đồng với nhà máy rang xay và đóng gói tại Mỹ để hoàn thiện sản phẩm ngay trong nước sở tại, từ đó tránh một phần thuế nhập khẩu sản phẩm đã chế biến.
Theo ông Minh, hiện Công ty TNHH Thương mại và Sản xuất dừa BenTre (Bentrecorp) có kế hoạch mời cổ đông là các quỹ đầu tư nông sản, nhà nhập khẩu cà phê hoặc doanh nhân Việt kiều tại Mỹ, vừa hỗ trợ tài chính vừa giúp mở rộng quan hệ. Lợi thế khi gọi vốn trong bối cảnh thuế mới. Nhà đầu tư nhìn thấy rõ “khoảng trống thị trường” khi nhiều đối thủ rút lui.Việc mở văn phòng và chế biến tại Mỹ giúp Công ty TNHH Thương mại và sản xuất dừa BenTre (Bentrecorp) vượt rào thuế và trở thành thương hiệu Việt hiếm hoi có hiện diện trực tiếp ở thị trường cà phê lớn nhất thế giới.
May hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản tại Công ty may Hưng Việt (Phố Nối, Hưng Yên). Ảnh minh họa: Trần Việt/TTXVN
Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu
Theo Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền, thế giới đang chia thành ba cấp độ thị trường, cấp độ dễ tiếp cận là các nước đang phát triển châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ… nhưng giá bán thấp; cấp độ trung tính là Mỹ, không quá nhiều tiêu chuẩn, điều kiện mà giá bán khá cao; cấp độ khó tiếp cận là châu Âu với nhiều loại hàng rào kỹ thuật, yêu cầu chất lượng nhưng giá bán cao. Các doanh nghiệp tại Việt Nam cũng như thế giới thích chọn Mỹ và cũng đã có thói quen bán hàng sang thị trường này. Chính sách thuế đơn phương và bất ngờ của Mỹ buộc các doanh nghiệp phải tìm cách đa dạng hóa thị trường, nhắm vào các quốc gia mà Việt Nam đã có FTA.
Đối với các sản phẩm chủ lực của Việt Nam như da giày, dệt may, đồ gỗ, nông lâm thủy sản…, nhà nhập khẩu lớn không phải Mỹ hay châu Âu mà là các ông lớn trong ngành bán lẻ. Họ là người chịu tác động trực tiếp từ thuế quan Mỹ, buộc phải chia sẻ gánh nặng thuế quan với khách hàng nếu không muốn giảm doanh số, vì thế, sẽ tìm cách giảm thị phần ở Mỹ và phân bổ hàng hóa sang các thị trường tiềm năng khác. Các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm cách bán được hàng trực tiếp tới các ông lớn này, thay đổi mẫu mã, yêu cầu về sản phẩm theo dòng chuyển dịch của họ thì sẽ giữ được đơn hàng và gián tiếp mở rộng được thị trường, Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền nói.
Còn theo chuyên gia kinh tế Lê Châu Hải Vũ, Giám đốc Công ty cổ phần Dịch vụ tư vấn doanh nghiệp ConsulTech, các chiến lược ứng phó trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn mà doanh nghiệp Việt Nam có thể áp dụng để đối phó với tác động tiêu cực từ việc áp thuế của Hoa Kỳ và duy trì sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Chiến lược ngắn hạn cần làm ngay. Mục tiêu chính trong ngắn hạn là giảm thiểu thiệt hại trực tiếp và duy trì sự ổn định của hoạt động kinh doanh.
Doanh nghiệp Việt Nam cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, giảm sự phụ thuộc vào thị trường Mỹ bằng cách đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường mà Việt Nam đã có các FTA với mức thuế suất ưu đãi. Cụ thể như các nước trong khối Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương gọi tắt là Hiệp định CPTPP và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) là hai FTA có phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao nhất của Việt Nam từ trước tới nay; Vương quốc Anh (UKVFTA) và các thị trường tiềm năng ở châu Á như Nhật Bản và Hàn Quốc, đặc biệt là khu vực Hồi Giáo, chuyên gia kinh tế Lê Châu Hải Vũ phân tích.
Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt cũng cần thỏa thuận chia sẻ chi phí, đàm phán với các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ để cùng nhau san sẻ gánh nặng thuế quan. Doanh nghiệp Việt có thể đề xuất các phương án như điều chỉnh giá bán, giảm chi phí ở các khâu khác hoặc thay đổi các điều khoản giao hàng. Tối ưu hóa sản xuất và quy trình, cải thiện hiệu quả sản xuất để cắt giảm chi phí hoạt động, bù đắp một phần chi phí phát sinh từ thuế. Điều này có thể bao gồm việc giảm lãng phí, tăng năng suất lao động và tinh gọn bộ máy.
Về chiến lược trung hạn, chuyên gia kinh tế Lê Châu Hải Vũ cho biết, giai đoạn này tập trung vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh cốt lõi và xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển. Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm, thay vì tập trung vào các mặt hàng có giá trị thấp dễ bị cạnh tranh, doanh nghiệp nên đầu tư vào sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn. Ví dụ, từ dệt may cơ bản sang dệt may chức năng, từ thủy sản thô sang thủy sản chế biến sẵn.
Doanh nghiệp Việt cần đầu tư vào công nghệ và tự động hóa, áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến và tự động hóa để tăng năng suất, cải thiện chất lượng sản phẩm và giảm chi phí nhân công. Điều này giúp doanh nghiệp duy trì được lợi thế cạnh tranh ngay cả khi phải chịu thuế cao hơn. Đặc biệt cần tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp để phát triển chuỗi cung ứng trong nước, giảm sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu (như vải, da, gỗ) và từ đó nâng cao tỷ lệ nội địa hóa. Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp chủ động hơn mà còn đáp ứng tốt hơn các quy tắc xuất xứ.
Nói về chiến lược dài hạn, chuyên gia kinh tế Lê Châu Hải Vũ cho rằng, chiến lược dài hạn hướng tới việc thay đổi nền tảng kinh tế và tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững trong dài hạn. Doanh nghiệp Việt thu hút, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đầu tư mạnh vào giáo dục và đào tạo để nâng cao tay nghề và kỹ năng của người lao động. Một lực lượng lao động có trình độ cao là yếu tố then chốt để doanh nghiệp Việt Nam chuyển mình sang các ngành sản xuất phức tạp hơn và có giá trị cao.
Mức thuế 20% của Hoa Kỳ đã đặt ra một bài toán khó cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, nó cũng là một động lực để các doanh nghiệp phải chủ động tìm cách nâng cao năng lực sản xuất, tăng tỷ lệ nội địa hóa, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và đầu tư vào nghiên cứu phát triển để tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn, phát thải ít hơn và quy chuẩn hơn để từ đó duy trì và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Nguyễn Văn Việt (TTXVN )
Nguồn Tin Tức TTXVN : https://baotintuc.vn/kinh-te/thue-doi-ung-hoa-ky-20-co-hoi-va-thach-thuc-cho-doanh-nghiep-viet-da-dang-hoa-thi-truong-xuat-khau-20250813143356772.htm