Thương mại thủy sản Việt Nam – Hoa Kỳ: Từ khởi đầu khiêm tốn đến tăng trưởng vượt bậc

Thương mại thủy sản Việt Nam – Hoa Kỳ: Từ khởi đầu khiêm tốn đến tăng trưởng vượt bậc
12 giờ trướcBài gốc
Thương mại thủy sản Việt Nam – Hoa Kỳ: 30 năm nhìn lại
Năm 2025 đánh dấu tròn 30 năm Việt Nam và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ ngoại giao (1995 – 2025). Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, thương mại thủy sản Việt Nam – Hoa Kỳ đã trải qua một chặng đường tăng trưởng đặc biệt ấn tượng, từ quy mô vài chục triệu USD ban đầu lên gần 2 tỷ USD mỗi năm, đưa Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu thủy sản số một của Việt Nam trong nhiều năm liên tiếp.
Theo bà Lê Hằng, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), những năm cuối thập niên 1990, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Hoa Kỳ khởi đầu hết sức khiêm tốn.
Năm 1997, kim ngạch mới đạt 39 triệu USD, chủ yếu là tôm đông lạnh. Tuy nhiên, bức tranh đã thay đổi căn bản sau khi hai nước ký Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) năm 2000. Ngay trong năm nay, xuất khẩu thủy sản sang Hoa Kỳ đã tăng vọt lên gần 300 triệu USD, mở ra giai đoạn tăng trưởng nhanh kéo dài suốt hơn hai thập kỷ.
Xuất khẩu thủy sản Việt Nam - Hoa Kỳ từ 1997 đến 2025. Nguồn: VASEP.
Mốc tiếp theo có ý nghĩa đặc biệt là năm 2007, khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Từ đây, thủy sản Việt Nam bước vào giai đoạn mở rộng mạnh mẽ trên thị trường Hoa Kỳ. Kim ngạch nhanh chóng vượt 700 triệu USD năm 2008, lần đầu tiên vượt mốc 1 tỷ USD năm 2010 và duy trì ổn định trên 1,1 – 1,7 tỷ USD trong giai đoạn 2011 – 2014.
“Có thể nói, giai đoạn 2010 – 2014 là thời kỳ tăng trưởng “nóng” của thủy sản Việt Nam tại Mỹ, khi cả ba nhóm hàng chủ lực là tôm – cá tra – cá ngừ cùng bứt phá mạnh mẽ, đưa tổng kim ngạch năm 2014 lên mức kỷ lục 1,74 tỷ USD”, bà Lê Hằng thông tin.
Bước sang thập niên 2020, dù chịu tác động nặng nề của đại dịch COVID-19 và đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, xuất khẩu thủy sản sang Hoa Kỳ vẫn duy trì sức bật đáng kể. Năm 2020, kim ngạch đạt 1,62 tỷ USD; năm 2021 tăng vọt lên 2,05 tỷ USD; năm 2022 đạt đỉnh lịch sử 2,15 tỷ USD. Đây là kết quả của sự cộng hưởng giữa nhu cầu tiêu dùng tăng cao hậu đại dịch, cùng khả năng thích ứng nhanh của doanh nghiệp Việt Nam.
“Sau thời điểm hai nước nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện (9/2023), xuất khẩu thủy sản chịu ảnh hưởng từ lạm phát, tồn kho cao và xu hướng thắt chặt chi tiêu tại Hoa Kỳ, nhưng vẫn duy trì ở quy mô rất lớn: 1,56 tỷ USD năm 2023, phục hồi lên 1,82 tỷ USD năm 2024 và ước đạt gần 1,95 tỷ USD năm 2025. So với mức xuất phát chỉ 39 triệu USD năm 1997, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Hoa Kỳ sau gần 30 năm đã tăng gần 50 lần”, bà Lê Hằng cho biết.
Trong cơ cấu mặt hàng, tôm luôn là nhóm hàng dẫn dắt suốt 30 năm qua. Từ mức hơn 32 triệu USD năm 1997, kim ngạch tôm sang đất nước này đạt đỉnh trên 1,06 tỷ USD năm 2014, duy trì quanh 800 triệu – 1,05 tỷ USD trong các năm gần đây và ước đạt 814,7 triệu USD năm 2025.
Cá tra nổi lên mạnh mẽ từ đầu những năm 2000, đặc biệt bứt phá trong giai đoạn 2010 – 2018 với nhiều năm đạt 300 – 550 triệu USD. Tuy chịu biến động mạnh vì thuế chống bán phá giá và chi phí tuân thủ gia tăng, cá tra vẫn duy trì quy mô trên 330 triệu USD năm 2025.
Cá ngừ tăng trưởng bền bỉ, từ mức rất thấp cuối thập niên 1990 lên gần 487 triệu USD năm 2022, hiện dao động 350 – 390 triệu USD/năm. Bên cạnh đó, các nhóm hàng như cá biển khác, cua ghẹ, mực – bạch tuộc, nhuyễn thể có vỏ ngày càng đóng góp tích cực, phản ánh xu hướng đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu.
Thích ứng để phát triển bền vững
Để vượt qua thách thức và bước vào “kỷ nguyên mới”, ngành thủy sản Việt Nam buộc phải chuẩn bị tâm thế sẵn sàng trước các biến động của thị trường Hoa Kỳ, từ chiến lược thị trường, quản trị rủi ro đến tiêu chuẩn môi trường – xã hội. Việc nâng cao chất lượng, tăng tính minh bạch trong chuỗi cung ứng, giảm phát thải và số hóa truy xuất nguồn gốc không còn là lựa chọn, mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc.
Từ góc độ cấu trúc thị trường, Việt Nam và Hoa Kỳ gần như không có sự cạnh tranh trực tiếp về sản phẩm thủy sản, mà mang tính bổ trợ rõ nét. Việc tạo điều kiện thuận lợi hơn cho thủy sản Việt Nam tiếp cận thị trường này không chỉ giúp người tiêu dùng Hoa Kỳ có thêm lựa chọn sản phẩm, mà còn mở rộng cơ hội để Việt Nam gia tăng nhập khẩu đậu nành, ngũ cốc từ họ làm nguyên liệu thức ăn nuôi trồng thủy sản, qua đó hình thành chuỗi giá trị gắn kết hai chiều.
“Sau 30 năm, thương mại thủy sản Việt Nam – Hoa Kỳ đã đi từ quan hệ thăm dò, mở cửa, vượt rào cản, hội nhập sâu và hướng tới bền vững. Trong bối cảnh quan hệ song phương đã nâng lên tầm Đối tác Chiến lược Toàn diện, kỳ vọng về một giai đoạn phát triển ổn định, minh bạch và dài hạn cho thủy sản Việt Nam tại thị trường này đang trở nên rõ nét hơn bao giờ hết”, bà Lê Hằng nhấn mạnh.
Bà Lê Hằng, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) nhận định, song hành với tăng trưởng là hàng loạt thách thức mang tính hệ thống. Đáng kể nhất vẫn là thuế chống bán phá giá đối với tôm và cá tra, kéo dài suốt hơn hai thập niên, khiến chi phí pháp lý và rủi ro thương mại của doanh nghiệp Việt Nam luôn ở mức cao. Bên cạnh đó, quy định MMPA đối với hải sản khai thác, yêu cầu nghiêm ngặt về bảo vệ động vật biển và truy xuất nguồn gốc, tiếp tục là rào cản đáng kể.
Diệu Linh
Nguồn Công Thương : https://congthuong.vn/thuong-mai-thuy-san-viet-nam-hoa-ky-tu-khoi-dau-khiem-ton-den-tang-truong-vuot-bac-434334.html