Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ I - Tiền đời vua Lê Trang Tông (1533 - 1548)

Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ I - Tiền đời vua Lê Trang Tông (1533 - 1548)
5 giờ trướcBài gốc
Tiền Triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789)
Bối cảnh lịch sử
Nhà Mạc thay thế nhà Lê, quản lý vùng đất Bắc gọi là Bắc Triều. Con cháu nhà Lê dạt vào Thanh Hóa. Họ Trịnh dựng con cháu nhà Lê, lập lại một vương triều khác, lịch sử gọi là triều Lê Trung Hưng, quản lý vùng đất phía nam, gọi là Nam Triều.
Triều Lê Trung Hưng bắt đầu từ năm 1533 và kết thúc năm 1789, tồn tại 256 năm. Vị vua đầu tiên của Nam triều là Lê Trang Tông.
Dưới triều Lê Trung Hưng, mặc dù con cháu nhà Lê vẫn nối nhau làm vua, nhưng quyền hành chính sự đều nằm trong tay các chúa Trịnh. Tuy vậy, trong mọi văn kiện chính thống của nhà nước, vẫn ghi niên hiệu vua Lê. Theo đó, các loại tiền đúc ra đều ghi niên hiệu của nhà vua.
Trong khoảng thế kỷ XVI-XVII, họ Trịnh với chiêu bài phù Lê diệt Mạc, đã tiến hành một cuộc nội chiến quyết liệt. Cuối cùng, nhà Mạc thất bại. Chẳng bao lâu sau, cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài lại diễn ra. Tình cảnh đó khiến cho nền kinh tế suy yếu, ngoại thương đình đốn. Các triều vua đúc tiền ra chỉ để tỏ thanh thế và quyền lực, nhưng thực chất giá trị đồng tiền bị hạn chế và kinh tế không phát triển. Hình thức vật đổi vật lại trở về với thời kỳ này.
Đến thế kỷ XVIII, nền kinh tế hàng hóa tư nhân phát triển, tạo nên sự phát triển của nội thương và ngoại thương. Do đó, việc cần tiền chi tiêu là một đòi hỏi tất yếu của mọi tầng lớp trong xã hội và đúc tiền trở nên rầm rộ, nhất là dưới đời vua Lê Hiển Tông và Lê Chiêu Thống. Trong đó, đời Lê Hiển Tông (1740 - 1786) cho đúc tiền với số lượng lớn, chủng loại phong phú. Ngoài tiền do Nhà nước đúc, còn có tiền do dân gian đúc. Do số lượng đúc tiền nhiều khác thường, nên thời kỳ này được các nhà nghiên cứu tiền tệ gọi là hiện tượng tiền Cảnh Hưng, bởi vua cho đúc tiền với đủ loại tên gọi, kể cả địa danh đúc, lưng tiền có nhiều loại mỹ hiệu và ký hiệu.
Tiền các đời vua triều Lê Trung Hưng (1533-1788)
1. Tiền đời vua Lê Trang Tông (1533 - 1548)
Năm 1533, Lê Duy Minh, con trai của vua Lê Chiêu Tông lên ngôi ở đất Ai Lao (tức vua Lê Trang Tông), đặt niên hiệu là Nguyên Hòa (1533-1548), cho đúc tiền Nguyên Hòa thông bảo với số lượng hạn chế, mang ý nghĩa đánh dấu sự trở lại của triều đại nhiều hơn là để lưu thông, tiêu dùng trong dân.
Tiền đúc bằng đồng. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Nguyên Hòa thông bảo”- 元和通寳 theo kiểu Tạp thư, đọc chéo. Chữ “Nguyên”- 元 và chữ “Hòa”- 和 theo kiểu chữ Triện, chữ “Thông”- 通 và chữ “Bảo”- 寳 theo kiểu chữ Chân. Cũng có đồng tiền 3 chữ “Nguyên”- 元, “Hòa”- 和, “Bảo”- 寳 đúc theo kiểu chữ Triện, chữ “Thông”- 通 theo kiểu chữ Chân. Khổ chữ nhỏ, nét chữ đậm, rõ ràng, nổi cao và sắc nét. Lưng tiền để trơn. Biên tiền trước và sau đều nổi rõ. Đường kính 24,5mm, dày 1,5mm, nặng 3,7gr .
Ảnh 1.8.1. Tiền Nguyên Hòa thông bảo 元和通寳, kiểu Tạp thư, lưng tiền trơn, đk 24,5mm
Do điều kiện đất nước chiến tranh, tiền Nguyên Hòa thông bảo 元和通寳 được đúc với số lượng ít và hạn chế lưu thông, chủ yếu từ Thanh Hóa trở vào.
Năm Mậu Thân (1548), vua Lê Trang Tông mất, con trai là Lê Huyên lên ngôi (tức vua Lê Trung Tông), năm sau đổi niên hiệu là Thuận Bình (1549 - 1556). Tháng Giêng năm Bính Thìn (1556), vua Lê Trung Tông băng hà khi mới 22 tuổi, không có con nối ngôi. Trịnh Kiểm đã tìm một người họ xa của dòng tộc nhà Lê là Lê Duy Bang lập làm vua kế vị (tức vua Lê Anh Tông), đặt niên hiệu là Thiên Hựu (1557). Năm thứ 2, vua đổi niên hiệu là Chính Trị (1558 - 1571); năm 1572, vua lại đổi niên hiệu là Hồng Phúc. Cho đến nay, chúng ta chưa phát hiện được loại tiền nào mang niên hiệu của các đời vua Lê Trung Tông và Lê Anh Tông.
Đón đọc Kỳ II: Tiền đời vua Lê Thế Tông (1573 - 1599)
Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm
Lâm.TV
Nguồn TBNH : https://thoibaonganhang.vn/tien-trieu-le-trung-hung-1533-1789-ky-i-tien-doi-vua-le-trang-tong-1533-1548-168496.html